Nói chung, không có một quy chuẩn nào về chuyện đọc sách, có quyển sách (nhất là nếu được coi là kinh điển) thì nên đọc kĩ, nhưng nhiều quyển thì chỉ cần đọc qua lấy ý chính, mà có khi chỉ cần nghe người khác nói lại là đủ. Cái này là cả một nghệ thuật.
Đọc quá kĩ thì mất thời gian mà chưa chắc hiệu quả, bởi vì, cái người ta nghĩ ra mình cũng có thể nghĩ ra, chưa chắc cần phải đào bới quá kĩ nhưng cái người khác đã đào bới, thay vì thế mình chỉ cần nắm ý đồ, rồi tự dùng tư duy của mình để bắt theo mạch của tác giả để suy nghĩ phân tích tiếp, có khi lại ra nhiều cái hay hơn. Vì thế, có khi một quyển sách vừa đọc các tên của chương mục đã hiểu viết gì ở trong, hay có khi chỉ cần đọc tên quyển sách là đã có thể nắm được vấn đề.
Tôi trước khi đọc một quyển sách, đều cố gắng dự đoán xem mình cần tìm những gì từ nó. Sau đó, khi đọc mỗi một chương mục, tôi đều tự tư duy xem họ viết gì ngay sau khi nhìn thấy tít của chương mục đó, nếu cảm thấy vấn đề đấy đơn giản mình hiểu ngay được, thì tôi chỉ đọc lướt qua hay thậm chí không đọc nội dung của nó nữa để chuyển sang chương khác. Ví dụ quyển "1000 điều tâm đắc của Dale Carnegie" tôi hầu như chỉ lướt qua các cái tít của từng điều, không đọc ví dụ và phân tích. Nếu mà mình cảm thấy chưa hiểu hoặc chưa đủ, tôi sẽ đọc cẩn thận, và đối chiếu với những cái mình đã nghĩ trước với cái mình vừa hiểu được.
Nhiều khi chỉ cần nghe ai nói về một quyển sách nào đó, là ta đã nắm được vấn đề, không cần phải tìm đọc. Đơn giản vì không ai có thể đọc hết sách trên đời, nên mới cần thảo luận học hỏi lẫn nhau, và các forum trên mạng phải chăng cũng vì một mục đích đấy mà tụ hội được bao con người uyên bác.
Nhưng phải rất coi chừng với chuyện đọc lướt hay chỉ nghe người khác nói. Đó là vấn đề nguyên bản. Ví như người ta vẫn chẳng tranh cãi suốt về chuyện bản gốc của các dị khảo. Giả sử, nghe ai nó về Khổng chẳng hạn từ anh A, thì đó đã là Khổng của A, mà nếu A lại nghe từ B, thì đó là Khổng của B và A, rồi cứ như thế truyền miệng, cuối cùng qua vài đời F lai, Khổng chắc thành cái gì rồi chứ và nếu một sự nhầm lẫn tam sao thất bản tai hại về tên tuổi, có khi nó thành ông Kổng, hay ông Cống nào đó chẳng ai nhận ra nữa.
Hôm xem chương trình gì đó của chị Tạ Bích Loan về những người nước ngoài yêu Việt Nam, có một bà Lady Bolton người Mỹ nghiên cứu về Cụ Hồ, nói một vấn đề làm ai đó sẽ giật mình. Đó là, Cụ Hồ trong bản tuyên ngôn 2-9-45 đã thay đổi một chút trong lời mở đầu mà mọi người vẫn cho là Bác lấy nguyên trong Tuyên ngôn của Mỹ. Trong bản tuyên ngôn Mỹ cách đây 400 năm, thì là "mọi đàn ông (all men) sinh ra đều bình đẳng" vì cái hồi đấy phụ nữ đâu có quyền gì, về sau khi có sự bình đẳng cho phụ nữ, nên cái từ men nó mới đại diện cho con người nói chung. Bác đã rất tiến bộ khi đã chuyển thành: all men mọi người, quả là rất hợp lý vì "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh" mà, các bà cũng ghê lắm chứ.
Lại một ví dụ nữa về Cụ Hồ. Lời dạy nguyên gốc của Bác cho ngành y: "Lương y PHẢI như từ mẫu" về sau bị mất đi từ "phải". Lương y làm sao mà là từ mẫu được, mà phải như từ mẫu chứ, cái từ PHẢI nghe có vẻ cưỡng ép đầy trách nhiệm ấy xét ra cũng có ý nghĩa và chuẩn xác ghê gớm lắm, nghĩ ra thấy thật đắt.
Vì vậy, việc tìm đọc kĩ càng và nguyên gốc cũng rất cần thiết, đặc biệt là các sách được coi là kinh điển cho một lĩnh vực nào đó. Tôi nhận ra, trong một đống sách mình mua về một vấn đề/lĩnh vực nào đó, thì hoá ra, chỉ có độ 1-2 quyển là cơ bản, và các quyển còn lại đều chỉ là ăn theo, dựa vào đó mà viết thêm. Chẳng hạn Đắc Nhân Tâm cũng có thể coi là kinh điển trong cách đối nhân xử thế trong thời hiện đại. Nhờ đã đọc kĩ nó, nên các quyển ăn theo về sau, tôi chỉ đọc lướt qua, ví dụ như "1000 điều tâm đắc của Dale". Thế nhưng, riêng cái chuyện xác định thế nào là kinh điển cũng ối việc ra, vẫn cần cái linh cảm nào đó, một sự linh cảm có thể rèn luyện bằng kinh nghiệm.
Riêng cái cảm giác là có nên đọc kĩ, đọc lướt hay bỏ qua một quyển sách hay một chương mục đã đòi hỏi một sự không đơn giản rồi, cần rèn luyện và kinh nghiệm. Một người thầy của tôi có nói, phải mất nhiều tiền ngu mua sách thì mới biết cách mà chọn sách, mà để biết cách đọc sách còn lâu hơn. Thầy còn thú thật là đọc từ năm còn nhỏ mà đến gần 40 mới gọi là tạm biết cách đọc sách, sau khi đã đọc nhầm rất nhiều sách
Trên tôi đã nói về cách tiếp cận với sách, hay là cách mở sách, bây giờ là đến lúc gập sách lại. Một lần đọc trên tạp chí Tia sáng (số ??) có một bài của GS. Hồ Ngọc Đại viết về cách đọc sách. Ông có viết rằng nếu bảo sinh viên tóm tắt một quyển sách trong 1 trang thì ai cũng làm được, nhưng khi bảo tóm tắt trong một vài câu thì đã khó khăn hơn, mà tóm tắt trong 1 câu thì hầu như ít người làm nổi, mà tóm tắt trong một từ ngữ thì đúng là hầu như không ai thực hiện được (trong đám học sinh của ông). Nghĩ quả là có lý trong cái sự đọc sách ấy, khi ta đã hiểu được sách, thì làm sao để ghi nhớ rồi có lúc mang ra vận dụng.
Tôi có đọc đâu đó câu nói: “Ngày này, người ta không còn cố gắng để ôm trọn kiến thức, mà chỉ cố gắng chèo chống trong đại dương kiến thức”. Nếu ai đã học Research methods, chắc hẳn biết tree-diagram (tương tự như sơ đồ dàn ý), một cái xương sống cho toàn bộ nghiên cứu. Việc ghi nhớ thông tin cũng thế, ta cần tạo một tree-diagram cho một kiến thức hay sách. Từ việc tóm tắt thành một trang với khá nhiều thông tin nhánh, ta tiếp tục tóm tắt hay tổng quát trong một vài câu, rồi thêm một bước nữa là từ ngữ, ta đã thiết lập được một tree-diagram quản lý thông tin. Quá trình lấy thông tin ra lại sẽ là quá trình ngược lại, từ một từ hay ngữ khoá (key word or phrase) ở cấp 1 của tree-diagram, ta sẽ khai triển được bước cao hơn là các câu khoá, rồi đoạn khoá, từ đó cứ thế phát triển, ta có thể lần ra toàn bộ quyển sách hay kiến thức. Việc tóm lược thông tin thành các từ ngữ khóa theo một hệ thống nhiều cấp, nhiều tầng là rất cần thiết. Việc này có thể được liên tưởng với việc dựng hay vẽ một cái cây, phải bắt đầu từ gốc hay thân, rồi cành rồi mới đến lá. Làm gì cũng phải có hệ thống, đọc sách và nhớ sách càng phải thế.
Như vậy việc mở sách ra (phân tích) rồi đóng sách vào (tổng hợp) cũng lắm chuyện lắm, chẳng có một quy tắc nhất định nào cả, hoàn toàn phụ thuộc vào chính khả năng và kinh nghiệm của người đọc, túm lại là phải "nghệ thuật", không bàn hết nổi.
(Nguồn: chungta.com)
Một bài viết khá hay nên post lên đọc chơi, ai lựơm được gì từ bài này thì là tùy mỗi người đọc.
Nơi lưu giữ những cảm nhận sau khi đọc. Blog sẽ đủ các thể loại trừ truyện tranh và sách học
Tuesday, September 30, 2008
Friday, September 26, 2008
DẦU MỎ, TIỀN BẠC VÀ QUYỀN LỰC - The epic quest for Oil, Money and Power

Tên sách: DẦU MỎ, TIỀN BẠC VÀ QUYỀN LỰC
Tác giả: Daniel Yergin
Dịch giả: Kiều Oanh, Thu Trang, Vân Nga
Phát hành: Alphabooks và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật
Giá: 289.000đ
(Giảm giá 20% tại Nhà sách Sách Hà Nội (đường MinhKhai - HCM) và giảm 15% tại Nhà sách Quỳnh Mai (đường MinhKhai - HCM), giảm giá 30% tại nhà sách Kim Dung trên đường Trần Huy Liệu, HCM)
Thật sự đây là cuốn sách gây nhiều chú ý cho tôi kể từ khi nó còn đang trong vòng bản dịch tiếng Việt. Tôi cũng đã thử tìm bản free của phiên bản năm 1991 của nó nhưng vẫn chưa tìm ra. Vi vậy chỉ post lên đây cho mọi người xem những ý kiến đánh giá của các web để hiểu thêm về DẦU MỎ. (thật sự lúc mới đầu, thấy Alpha Book treo giá 199k đã thấy nhiều rồi, vậy mà bây giờ giá chính thức 289k ->tiền đâu mà mua...)
Ngày 9/11 -> mới tậu nó xong, có điều chưa biết khi nào mới đọc hết để comment
Lưu ý: người giới thiệu chưa đọc
From TUAN VIET NAM
Nếu để tóm lược (một cách khó khăn) cái nội dung đồ sộ đến mức đáng sợ của cuốn Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, thì chúng ta có thể gọi nó là "lịch sử thế giới cận đại và hiện đại qua lăng kính dầu mỏ".
Dày 1202 trang (bản tiếng Anh của NXB Free Press dày 928 trang), Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực là công trình thứ ba của tác giả Daniel Yergin khiến chúng ta phải kinh ngạc về sức viết và tầm tư duy của ông. Hai cuốn trước đó là Nền hòa bình bị phá bỏ (Shattered Peace, 1977) - được coi là tác phẩm kinh điển về nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh - và Tương lai năng lượng (Energy Future, 1979) - một cuốn sách nghiên cứu thuộc hàng best-seller.
Bạn đọc Việt Nam hẳn cũng biết đến một Daniel Yergin là tác giả của cuốn sách nổi tiếng về lịch sử kinh tế thế kỷ 20 Những đỉnh cao chỉ huy (Commanding Heights, 1998), viết chung với Joseph A. Stanislaw.
Viết sử bằng dầu mỏ
Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực khắc họa toàn cảnh cuộc chiến của cả thế giới nhằm tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh vấn đề dầu mỏ, và vẽ nên một bức tranh khổng lồ về thời đại của chúng ta: thời đại dầu mỏ.
Như một phong cách riêng của tác giả Daniel Yergin, cuốn sách trước hết là một tác phẩm nghiên cứu, nhưng nó cũng là một tập hợp của vô vàn chuyện kể lịch sử thú vị với những nhân vật lịch sử đầy tính cách.
Yergin dẫn chúng ta đi ngược dòng thời gian về những ngày xa xưa, khi dầu mỏ còn ngủ yên trong lòng đất với những sức mạnh chưa được khám phá. Đã hàng thế kỷ, “người ta hầu như chỉ dùng những chiếc bấc đèn đơn giản nhúng vào mỡ động vật hay dầu thực vật. Còn với những người có tiền, mỡ cá nhà táng đã được coi là chuẩn mực của dầu thắp sáng chất lượng cao”. Nhưng số lượng những đàn cá voi, cá nhà táng ở các đại dương cứ vơi dần…
Thế rồi xuất hiện những nhân vật đầu tiên được dầu mỏ ghi danh: George Bissell, Silliman, Abraham Gesner, Edwin L. Drake. Họ là những người, bằng trực giác, ý chí và cả sự mạo hiểm của mình, đã bắt đầu xác định cái vai trò ghê gớm của dầu lửa: tạo năng lượng.
Cả thế giới sẽ được thắp sáng từ đây. “Đó là ánh sáng của thời đại… thứ ánh sáng mà thời Trung cổ không thể có… Dầu mỏ tạo ra một thứ ánh sáng đẹp đẽ, thứ ánh sáng sáng nhất và cũng rẻ tiền nhất trên thế giới”.
Và có thể coi rằng, kể từ ngày 27/8/1859, khi giếng dầu đầu tiên được khoan ở Pennsylvania, cả thế giới đã bước vào một thời đại mới mà ở đó, nhân loại phụ thuộc vào dầu mỏ. Không phải vàng, mà chính là vàng đen - tức dầu mỏ - đã làm thay đổi vận mệnh của các quốc gia nói chung.
Dầu mỏ - chất xúc tác cho các xung đột của thời đại
Dầu mỏ dẫn đến sự hình thành tờ-rớt (trust) đầu tiên của thế giới - tập đoàn Standard Oil của nhà tài phiệt Mỹ Rockefeller. Và cũng chính sức mạnh khủng khiếp mà dầu mỏ mang lại cho Standard Oil khiến chính quyền của Tổng thống Roosevelt phải tiến hành khởi kiện chống Standard Oil, tiến tới giải thể tờ-rớt khổng lồ này.
Dầu mỏ là nguyên nhân sâu xa của các cuộc thế chiến tranh giành quyền lực. Khi Hitler trở thành Thủ tướng Đức (năm 1933), nhà độc tài mau chóng thực hiện một chiến dịch sản xuất ôtô mà theo ông ta là “bước ngoặt trong lịch sử giao thông của Đức”.
Để làm cho cả châu Âu phải phụ thuộc vào nước Đức và nhà lãnh đạo tối cao của nó, Hitler khẩn trương xây dựng bộ máy chiến tranh gồm máy bay ném bom, máy bay chiến đầu, xe tăng, xe tải. Vấn đề là tất cả những phương tiện này đều cần có dầu để chạy động cơ…
Một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hitler khi xâm lược Liên Xô là nắm giữ các mỏ dầu vùng Caucasus. Cũng trong Thế chiến II, quân đội Nhật tấn công Trân Châu Cảng để bảo vệ cánh quân bên sườn của mình khi họ đang tìm cách chiếm lĩnh nguồn dự trữ dầu ở khu vực các nước Đông Ấn.
Dầu mỏ là động lực thúc đẩy cựu tổng thống Iraq Saddam Hussein đưa quân xâm chiếm Iran và sau đó là Kuwait, gây ra Chiến tranh Vùng Vịnh. Đằng sau hành động xâm chiếm này là tham vọng biến Iraq thành cường quốc dầu lửa thế giới. Dầu mỏ, kết hợp với vũ khí hạt nhân, sẽ đưa Iraq thành một siêu cường quốc.
Và cũng chính vì mối đe dọa từ việc lượng dầu dự trữ của hành tinh trở thành kho báu của Iraq, mà lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ và Liên Xô đã hợp tác, cũng như các nước Ảrập và phương Tây đã cùng tham gia trong một cuộc chiến quy mô lớn, tốc độ bão táp, nhằm đẩy lùi Iraq.
Trong Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, độc giả sẽ được “gặp” hàng chục nhân vật lịch sử của thế giới. Từ những người liều mạng “đổ xô đi tìm dầu” để sống và chết vô danh vì giấc mơ tiền bạc, đến những "ông vua không ngai" huyền thoại nhờ dầu mỏ.
Từ nhà tỷ phú Rockefeller – ông trùm của đế chế Standard Oil - đến gia tộc Do Thái tiếng tăm Rothschild và anh em nhà Nobel (trong đó có Alfred Nobel, cha đẻ của thuốc nổ, người đã dành trọn tài sản của mình cho giải thưởng Nobel danh giá sau này) - những người làm giàu trên đất Nga nhờ dầu lửa. Từ cựu thủ tướng Anh Winston Churchill đến Quốc vương Ảrập Xêút Ibn Saud. Từ cựu tổng thống Mỹ George Bush (cha) đến cố tổng thống Iraq Saddam Hussein.
Cách viết sống động, xác thực của Daniel Yergin khiến độc giả như được chứng kiến những khoảnh khắc lịch sử. Lịch sử vang tiếng khi Rockefeller - người thường bị xem như tên tài phiệt tư bản hám tiền, tàn bạo, dùng đủ thủ đoạn để nuốt chửng những công ty nhỏ, tiến tới hình thành một đế chế dầu lửa thống nhất – tuyên bố: “Hãy đem đến cho những người nghèo khổ thứ ánh sáng giá rẻ!”.
Standard Oil - "con bạch tuộc xấu xa" - ở một khía cạnh nào đó chính là công ty đã cung cấp vốn, cách thức tổ chức và công nghệ tiên tiến, cũng như gánh lấy những rủi ro cần thiết để khai mở một thị trường dầu mỏ toàn cầu và phục vụ cho thị trường đó.
Lịch sử cũng làm chúng ta bồi hồi khi Churchill quyết định nước Anh phải "xây dựng sức mạnh hải quân thống trị của mình dựa trên dầu mỏ", đồng thời khẳng định: "Quyền lực chính là chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu này". Hay là khi George Bush (cha) tuyên bố: "Cuộc xâm lược sẽ không kéo dài đâu", trước sự kiện Iraq đưa quân vào Kuwait và chiến tranh Vùng Vịnh bùng nổ.
Dầu mỏ cũng chính là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng kinh tế làm chấn động cả thế giới, vào các năm 1970-1973, 1979, 1990. (Thời điểm cuốn sách này được xuất bản lần đầu là năm 1991. Nếu bây giờ mới ra mắt thì nó chắc chắn sẽ được tác giả bổ sung thêm một chương về cuộc suy thoái kinh tế hiện nay của thế giới, cũng lại bắt đầu từ lạm phát giá dầu).
Nhờ dầu mỏ, những nước thuộc địa cũ, những quốc gia bé nhỏ ở Trung Cận Đông, mới nổi lên thành một thế lực mới trong nền địa chính trị toàn cầu. Nhờ địa vị "người đi đầu trong công nghiệp dầu mỏ", Mỹ vươn lên thành một cường quốc của thế giới về công nghiệp - kinh tế - chính trị.
Tác giả Daniel Yergin đã khái quát hóa vai trò chế ngự thế giới vật chất của dầu mỏ bằng những thông tin thú vị và có sức thuyết phục mạnh mẽ: “Quyền lực của một con chip máy tính ngang ngửa với quyền lực của một thùng dầu… Chừng nào con người còn chưa tìm được một nguồn năng lượng thay thế khác thì dầu vẫn còn tác động sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu; những thay đổi lớn về giá dầu có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hay ngược lại, dẫn đến lạm phát và suy thoái kinh tế”.
Với riêng độc giả Việt Nam...
… thì Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực là cuốn sách công phu nhất nghiên cứu về dầu mỏ dưới khía cạnh địa chính trị. Nói cách khác, đây là cuốn sách duy nhất và đầy đủ nhất cho đến nay mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về ngành công nghiệp dầu mỏ, tầm quan trọng chiến lược của dầu mỏ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.
Không chung chung như những bài báo hay mục điểm tin thời sự truyền hình, cũng không chỉ xoáy vào khía cạnh kỹ thuật – công nghệ như những tài liệu mà sinh viên các ngành hóa chất, hóa dầu vẫn được học, Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực cung cấp kiến thức một cách toàn diện cho độc giả Việt Nam, giúp chúng ta có cái nhìn sâu và rõ ràng nhất vào công nghiệp dầu mỏ và thời đại dầu mỏ.
Cuốn sách thích hợp cho tất cả các độc giả có nhu cầu hiểu “vì sao tin về giá dầu tăng lại luôn được đăng tải trên trang nhất các báo?”, “vì sao ngoài dầu mỏ, không có một loại hàng hóa nào khác trên thế giới (kể cả vàng) mà mỗi lần giá cả biến động mạnh lại khiến không chỉ nước công nghiệp phát triển như Mỹ mà cả một nước đang mở cửa như Việt Nam cũng bị ảnh hưởng?”
Điều đặc biệt hơn là cuốn sách được viết bởi một học giả kiêm một người kể chuyện. Vì thế cho nên nó chứa đầy những câu chuyện và thông tin thú vị, hấp dẫn. Độc giả sẽ có cảm giác như mình bị hút vào dòng chảy của một cuốn phim kỳ diệu về lịch sử thế giới, và quả thật là tác phẩm cũng đã được hãng PBS dựng thành phim cùng tên.
Bộ phim này đoạt giải Eccle cho tác phẩm không hư cấu (non-fiction) xuất sắc năm 1992. Cũng năm đó, cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực được trao giải Pulitzer.
* Đoan Trang
From AlphaBook
Dầu mỏ được coi là động lực phát triển và song hành cùng thế giới trên con đường tiến tới văn minh, song nó cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động chính trị. Những cuộc tranh giành quyền lực, chết chóc đau thương cũng có xuất phát điểm từ nguồn vàng đen này...
Từ cuối thế kỷ XIX, hết thế kỷ XX cho đến hôm nay, dầu mỏ đều ít nhiều là tác nhân gây nên những cuộc tranh giành quyền lực, dẫn đến những cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới và cuối cùng là hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX.
Vào đầu những năm 1970, do dầu đột ngột tăng giá, kinh tế thế giới, nhất là ở những nước công nghiệp tiên tiến, đã rơi vào một cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng. Từ đó tới nay những biến động về giá dầu đã trở thành mối quan tâm hàng ngày, hàng giờ. Nhiều lúc người ta có cảm tưởng sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ và khí đốt, nguồn năng lượng mà loài người hiện chỉ còn 30 đến 35% dự trữ, tức là với tốc độ sử dụng hiện nay dầu mỏ chỉ còn được sử dụng trong khoảng 30 đến 40 năm nữa.
Nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên quý giá này.
Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7/2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đôla một thùng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo "một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn".
Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang. Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn mà chuyện đó dường như còn xa vời.
Nằm trong sự ảnh hưởng chung, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.
Nỗi ám ảnh mang tên dầu mỏ
Vào những năm 1850, đồng lương của một giáo sư chẳng lấy gì làm sung túc. Vì vậy, để có thêm thu nhập, năm 1854, Benjamin Silliman Con, con trai một nhà hóa học vĩ đại người Mỹ, đồng thời cũng là giáo sư hóa học danh tiếng tại Đại học Yale, đã tham gia dự án nghiên cứu của một nhóm các nhà xúc tiến kinh doanh và doanh nhân với tổng mức thù lao là 526,08 đôla. Mặc dù đã hoàn thành công việc, ông vẫn không nhận được số tiền thù lao đã cam kết. Tức giận, Silliman muốn biết xem số tiền đó đã biến đi đâu. Sự giận dữ của ông nhằm vào những người đứng đầu nhóm này, George Bissell, một luật sư đến từ New York, và James Townsend, Chủ tịch một ngân hàng ở New Haven. Tuy nhiên, Townsend luôn né tránh vì e ngại những người gửi tiền tại ngân hàng của ông sẽ không yên tâm khi biết ông đang tham gia một hoạt động kinh doanh đầy tính đầu cơ như thế.
Bissell, Townsend và những thành viên khác trong nhóm kinh doanh này dồn hết tâm trí cho một điều vĩ đại, một tầm nhìn lớn về tương lai của thứ vật chất được biết đến với cái tên “dầu mỏ” nhằm phân biệt với các loại dầu thực vật và mỡ động vật. Họ biết rằng, dầu mỏ sủi bong bóng trên mặt các con suối hoặc thẩm thấu vào các giếng nước mặn ở khu vực xung quanh vùng Sông Dầu, một địa danh nằm giữa vùng đồi núi xa xôi ở phía tây bắc bang Pennsylvania. Tại nơi vùng đất hoang vu này, người ta tìm được một số thùng dầu bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Họ chỉ việc hớt loại vật chất tối màu và nặng mùi này trên mặt các con suối và nhánh sông hoặc vắt những miếng giẻ hoặc chăn nhúng trong nước có chứa dầu. Người ta sử dụng phần lớn lượng dầu nhỏ bé thu lượm được này để sản xuất thuốc.
Nhóm các nhà đầu tư này cho rằng có thể khai thác dầu mỏ với khối lượng lớn hơn nhiều rồi chế biến thành một loại chất lỏng có thể dùng để thắp sáng. Họ chắc chắn loại dầu mới này sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh với loại nến đang chiếm lĩnh thị trường vào những năm 1850. Tóm lại, họ tin tưởng rằng nếu khai thác được dầu với khối lượng đủ lớn, họ có thể tung ra thị trường một loại dầu thắp sáng chất lượng cao, giá thành thấp mà vào giữa thế kỷ XIX loài người đang rất cần. Họ bị thuyết phục bởi ý nghĩ rằng họ có thể chiếu sáng cho các thị trấn và nông trại tại Bắc Mỹ và châu Âu. Quan trọng hơn, họ có thể sử dụng dầu mỏ để bôi trơn các bộ phận chuyển động của máy móc trong buổi bình minh của kỷ nguyên cơ khí. Và cũng giống như tất cả những doanh nhân tin tưởng vào giấc mơ của riêng mình, họ còn tin tưởng rằng họ sẽ trở nên vô cùng giàu có nếu làm được tất cả những việc này. Không ít người nhạo báng họ. Tuy nhiên, nhờ kiên trì, những người này đã thành công trong việc đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên dầu lửa.
Dự án mang tên "Để xoa dịu những phiền muộn của chúng ta”
Dự án này bắt nguồn từ những ý định tình cờ và lòng quyết tâm của George Bissell, người đi đầu trong việc sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa. Với khuôn mặt dài, nhọn và vầng trán rộng, Bissell toát ra vẻ đẹp trí tuệ đầy ấn tượng. Ông là một người sắc sảo và nhạy bén với các cơ hội kinh doanh vì đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Tự lập từ năm 12 tuổi, Bissell tự trang trải cho việc học tập tại trường Cao đẳng Dartmouth bằng cách đi dạy và viết báo. Sau khi tốt nghiệp, ông từng làm giảng viên tiếng Latinh và Hy Lạp, rồi chuyển tới Washington để làm báo. Cuối cùng, Bissell định cư ở New Orleans, nơi ông trở thành hiệu trưởng của một trường trung học rồi làm giám thị của các trường công. Trong thời gian rảnh, ông học thêm để lấy bằng luật sư và tự học thêm nhiều ngôn ngữ nữa và, cuối cùng, ông thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và có thể đọc, viết bằng tiếng Do Thái cổ, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ và hiện đại, tiếng Latinh và tiếng Đức.
Nhưng do sức khỏe kém Bissell buộc phải trở lại Washington. Trên đường trở về, khi đi qua Pennsylvania ông nhìn thấy một số hoạt động khai thác dầu thô sơ với các vợt hớt và giẻ thấm dầu. Không lâu sau, khi tới thăm mẹ ở Hanover, bang New Hampshire, Bissell tới trường cũ của ông, trường Dartmouth. Tại đây, ông quan sát thấy một chai chứa mẫu dầu mỏ giống như ở Pennsylvania cho một học sinh cũ của trường đang làm bác sĩ tại phía tây Pennsylvania mang đến.
Bissell biết rằng loại dầu này đang được sử dụng như những loại thuốc dân gian và cả biệt dược để chữa nhiều loại bệnh từ đau đầu, đau răng, điếc… tới rối loạn tiêu hóa, nhiễm giun sán, thấp khớp và phù, cũng như làm liền các vết thương trên lưng ngựa và la. Loại dầu này được gọi là “dầu Seneca” theo tên người da đỏ địa phương đặt để bày tỏ lòng kính trọng với thủ lĩnh Red Jacket, nhân vật được cho là đã truyền lại những bí quyết chữa lành vết thương của loại dầu này cho người da trắng. Một công ty cung cấp dầu Seneca đã quảng cáo “sức mạnh chữa bệnh kỳ diệu” của loại dầu này bằng một bài thơ như sau:
"Thứ dầu tuyệt hảo đến từ dòng suối bí mật của thiên nhiên,
Đem đến cho con người sự khởi sắc trong sức khỏe và cuộc sống;
Từ những đáy sâu và dòng chảy kỳ diệu của tự nhiên,
Để làm dịu những đớn đau và phiền muộn của chúng ta".
Bissell biết chất lỏng sền sệt màu đen này có thể đốt cháy được. Nhìn thấy mẫu dầu mỏ ở Dartmouth, ông lóe lên một ý tưởng loại dầu này không chỉ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà còn có thể dùng làm dầu thắp sáng. Ông có thể thoát khỏi nỗi lo lắng về tiền bạc và trở nên giàu có nhờ việc phát triển thứ nhiên liệu này. Trực giác đó trở thành kim chỉ nam và niềm tin của ông, những điều được thử thách rất nhiều trong cuộc sống đầy thất vọng của ông sáu năm sau đó.
Nhưng liệu có thể dùng dầu mỏ làm nhiên liệu đốt? Bissell đã khuấy động mối quan tâm của các nhà đầu tư khác và cuối năm 1854, nhóm doanh nhân đã thuê giáo sư Silliman của Đại học Yale phân tích và đánh giá khả năng đốt cháy và bôi trơn của dầu. Nhưng điều chủ yếu họ muốn là có được sự tán đồng của vị giáo sư danh tiếng này dành cho dự án để bán được cổ phiếu và huy động vốn. Không ai có thể đáp ứng tốt mục đích này bằng Silliman. Với vóc người to lớn, tráng kiện và “khuôn mặt tử tế, vui vẻ”, Silliman là một trong những tên tuổi vĩ đại và đáng kính nhất trong nền khoa học thế kỷ XIX. Ông là con trai của người sáng lập ngành hóa học Mỹ và bản thân ông cũng là một trong những nhà khoa học tiêu biểu nhất thời đó. Silliman cũng là tác giả của những cuốn sách giáo khoa vật lý và hóa học hàng đầu. Yale là thủ đô khoa học của nước Mỹ giữa thế kỷ XIX và cha con nhà Silliman chính là tâm điểm của trung tâm này.
Tuy nhiên, Silliman quan tâm đến thực tiễn nhiều hơn là lý thuyết và thực tiễn đã hút ông vào lĩnh vực kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù có danh tiếng lớn và trình độ khoa học cao, ông luôn cần có thêm thu nhập. Lương làm khoa học rất thấp mà gia đình của ông lại đang phình ra. Do đó, ông thường nhận làm thêm các công việc tư vấn ở bên ngoài, cung cấp các đánh giá địa chất và hóa học cho nhiều đối tượng khách hàng. Mối quan tâm đến thực tiễn cũng thu hút ông tham gia trực tiếp vào những dự án kinh doanh mạo hiểm mà theo lời giải thích của ông, thành công của chúng sẽ đem đến cho ông “thật nhiều cơ hội… cho khoa học”. Một người em rể của ông thì tỏ ra hoài nghi hơn khi nhận xét, Benjamin Silliman “đang trên đà tụt dốc liên tục, về mặt này hay mặt khác. Thật đáng thương thay cho khoa học”.
Khi nhận việc phân tích dầu mỏ, Silliman luôn tạo cho khách hàng niềm tin mình đang có được bản báo cáo mong đợi. Silliman tuyên bố: “Tôi dám cam đoan với các ngài rằng kết quả này sẽ đáp ứng được những mong đợi của các ngài về giá trị của thứ vật chất này”. Ba tháng sau đó, khi gần kết thúc nghiên cứu, thậm chí ông còn có thái độ nhiệt tình hơn. Ông công bố đã có “thành công ngoài dự kiến trong việc sử dụng sản phẩm chưng cất của dầu mỏ làm chất đốt”.
Các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào bản báo cáo cuối cùng. Nhưng sau đó xảy ra một sự cố. Họ nợ Silliman số tiền 526,08 đôla (tương đương khoảng 5.000 đôla ngày nay) nên ông đã nhất quyết đòi họ phải chuyển trước 100 đôla tiền mặt vào tài khoản của ông ở New York. Sự chậm trễ trong việc đặt cọc đã khiến vị giáo sư nổi giận. Xét cho cùng, ông không thực hiện dự án này chỉ vì lòng ham thích khám phá khoa học đơn thuần. Vì thế, ông tuyên bố sẽ giữ lại những kết quả nghiên cứu cho tới khi nào được thanh toán hết tiền. Trên thực tế, Silliman đã bí mật đưa bản báo cáo cho một người bạn cất giữ, còn ông đi xuống miền Nam, nơi người ta rất khó gặp được ông.
Các nhà đầu tư cảm thấy thất vọng. Báo cáo cuối cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút thêm vốn. Cuối cùng, một trong những đối tác của Bissell đã chịu bỏ ra số tiền này với sự bảo đảm của chính Bissell. Bản báo cáo đề ngày 14/4/855 đã được giao cho các nhà đầu tư và nhanh chóng được chuyển tới nhà in. Mặc dù vẫn phát khiếp vì khoản thù lao phải trả cho Silliman, nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư này vẫn thu được nhiều hơn số tiền họ bỏ ra.
Theo nhận định của một nhà sử học, nghiên cứu của Silliman chính là “một bước ngoặt trong sự hình thành ngành dầu lửa”. Silliman đã xua tan những nghi ngờ về khả năng sử dụng dầu mỏ theo những phương thức mới. Ông chỉ ra cho các khách hàng của mình là có thể đun sôi dầu mỏ ở các nhiệt độ khác nhau và nhờ vậy có thể chưng cất dầu thành nhiều sản phẩm có thành phần chính là carbon và hydro. Một sản phẩm quan trọng trong số đó là loại dầu thắp sáng chất lượng rất cao.
Silliman viết: “Thưa các ngài, tôi hoàn toàn có cơ sở để tin công ty của các ngài sở hữu một loại vật liệu thô mà từ đó, có thể chế tạo ra những sản phẩm rất có giá trị bằng các quy trình giản đơn và không hề tốn kém. Thưa các ngài, sau những nỗ lực nghiên cứu không mệt mỏi, tôi có thể bảo đảm rằng công ty của các ngài đang sở hữu một loại tài nguyên quý giá. Với các quy trình công nghệ đơn giản và kinh tế, nó có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao”. Do những vướng mắc về tài chính đã được giải quyết, Silliman lại sẵn sàng tham gia các dự án tiếp theo.
Có bản báo cáo của Silliman trong tay, bản báo cáo giống như một lời quảng cáo có sức thuyết phục nhất dành cho vụ kinh doanh này, nhóm các nhà đầu tư trên không gặp trở ngại nào trong việc huy động các nguồn vốn cần thiết từ các nhà đầu tư khác. Bản thân Silliman cũng mua 200 cổ phiếu, khiến doanh nghiệp đã được biết tới với cái tên Công ty dầu mỏ Pennsylvania này càng kính nể ông hơn. Tuy nhiên, thời kỳ khó khăn còn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa trước khi các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia vào bước tiến mạo hiểm tiếp theo.
Nhờ nghiên cứu của Silliman, giờ đây, họ biết rằng có thể chiết xuất một chất lỏng dùng để đốt cháy từ dầu mỏ. Nhưng lượng dầu mỏ có sẵn liệu có đủ không? Một vài người cho rằng, dầu chỉ là những “giọt nhỏ” chảy ra từ các vỉa than ngầm. Một điều chắc chắn là không thể xây dựng hoạt động kinh doanh bằng cách vớt váng dầu trên mặt sông hoặc vắt dầu từ những mảnh giẻ rách thấm nước chứa dầu. Trước khi quyết định đầu tư lớn, vấn đề sống còn mà cả công ty này cùng hướng vào là phải chứng tỏ dầu mỏ tồn tại với khối lượng đủ để khai thác được.
Vào những năm 1850, việc phát triển dầu lửa tại Mỹ vấp phải hai rào cản lớn. Đó là chưa có một nguồn cung dầu đáng kể nào và chưa có loại đèn giá rẻ phù hợp để đốt loại dầu đó. Những loại đèn thời đó khi đốt tạo ra rất nhiều khói, và gây cay mũi. Sau đó, một đại lý bán dầu tại New York đã phát hiện ra một loại đèn có ống khói bằng thủy tinh để đốt dầu lửa đang được sản xuất tại Viên. Dựa trên thiết kế của người dược sĩ và người thợ đường ống ở Lvov, chiếc đèn đã khắc phục được các vấn đề khói và mùi. Đại lý dầu New York nhập khẩu loại đèn này và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Do liên tục được cải tiến, loại đèn xuất xứ từ Viên này đã trở thành cơ sở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đèn dầu tại nước Mỹ và sau đó được xuất khẩu trên khắp thế giới.
Như vậy, đến thời điểm Bissell khởi đầu dự án, dầu lửa loại dầu thắp sáng tốt và rẻ hơn đã được nhiều gia đình sử dụng. Những kỹ thuật cần thiết để lọc dầu thô thành dầu lửa đã được thương mại hóa với các loại parafin. Và một loại đèn giá rẻ cũng đã được phát triển để đốt dầu và đã đem lại những hiệu quả nhất định. Thật ra, những gì Bissell và các nhà đầu tư tại Công ty dầu mỏ Pennsylvania đang nỗ lực tìm kiếm là khám phá một nguồn nhiên liệu thô mới. Tựu chung, giá cả chính là vấn đề. Nếu họ có thể tìm thấy dầu mỏ đủ để đáp ứng nhu cầu, dầu sẽ được bán với giá rẻ và giành được thị phần của những sản phẩm dầu thắp sáng giá đắt hơn nhiều, hoặc không làm khách hàng hài lòng.
Việc đào lấy dầu không giải quyết được vấn đề. Nhưng có lẽ còn một giải pháp thay thế khác. Việc khoan tìm muối đã phát triển trước đó hơn 15 năm ở Trung Quốc, với các giếng muối khoan sâu tới 360 mét, chính là một gợi ý. Vào khoảng năm 1830, phương pháp cổ truyền của người Trung Quốc du nhập sang châu Âu và được người châu Âu học tập và rồi sau đó những kinh nghiệm này đã thúc đẩy việc khoan giếng muối ở Mỹ.
Khi đang trăn trở với dự án của mình, vào một ngày nóng bức năm 1856 ở New York, George Bissell tránh nắng dưới mái hiên của một tiệm thuốc trên đại lộ Broadway và bất chợt nhìn thấy tờ quảng cáo một loại thuốc sản xuất từ dầu mỏ, trên đó có hình ảnh nhiều giàn khoan các mỏ muối. Loại dầu mỏ dùng để chế tạo loại biệt dược đó là phụ phẩm thu được trong quá trình khoan khai thác muối. Với sự tình cờ này, tiếp theo những hoạt động ông đã thấy ở tây Pennsylvania và trường Dartmouth trước đây, Bissell nảy ra ý tưởng áp dụng công nghệ khoan khai thác muối để khoan dầu.
Bissell, rồi đến các nhà đầu tư khác trong Công ty dầu mỏ Pennsylvania, đều nhận thức sâu sắc là phải áp dụng kỹ thuật khoan muối vào việc khai thác dầu. Họ sẽ khoan thay vì đào để lấy dầu mỏ. Nhiều nhà đầu tư khác ở Mỹ và Ontario, Canada cũng đang thử nghiệm kỹ thuật trên. Tuy nhiên, Bissell và cộng sự đã sẵn sàng hiện thực hóa ý tưởng này. Họ đã có báo cáo của Silliman và nhờ nó đã huy động được vốn. Tuy nhiên, ý tưởng của họ không được đánh giá nghiêm túc. Khi ông chủ nhà băng James Townsend bàn về ý tưởng khoan dầu, nhiều người ở New Haven đã nhạo báng: “Ồ, Townsend! Dầu đi ra từ lòng đất, bơm dầu lên mặt đất như ông bơm nước ư? Thật vớ vẩn! Ông điên mất rồi!” Mặc dù vậy, các nhà đầu tư vẫn quyết tâm tiến hành. Họ tin vào cơ hội và nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng liệu họ có thể giao phó dự án điên rồ này cho ai?
....
Update 01 Aug 2009: download free here (english and 1991 edition)
Thursday, September 25, 2008
Thế giới phẳng - The World is Flat

Tác giả: Thomas L. Friadman.
Nhà xuất bản: Nxb Trẻ
Số trang: 818
Ngày xuất bản: 07 - 2006
Toàn cầu hóa là chủ đề vốn phức tạp và thu hút sự quan tâm của dư luận với không ít những ý kiến trái ngược nhau, được Thomas L.Friedman phân tích một cách độc đáo, với lập luận trung tâm về quá trình "trở nên phẳng" của thế giới. Khái niệm "phẳng" ở đây đồng nghĩa với "sự kết nối". Những dở bỏ rào cản về chính trị cùng với những tiến bộ vượt bậc của cách mạng số đang làm cho thế giới "phẳng ra" và không còn nhiều trở ngại về địa lý như trước. Điều này mở ra cho các nước những phương thức sản xuất kinh doanh, những tình thế địa chính trị và địa kinh tế hoàn toàn mới.
Thông điệp Friedman chuyển tải không xa lạ đối với nhiều bạn độc giả. Toàn cầu hoá là hiện tượng khách quan, từng được biểu hiện lẻ tẻ có khi như một trạng huống, một tiến trình, nhưng giờ đây được nhìn nhận rõ nét và khái quát hơn, khi nó trỗi dậy trở thành một hệ thống quốc tế. Điểm mấu chốt ở đây là, đôi lúc dư luận có dấu hiệu sao nhãng đối với các đòi hỏi mang tính tất yếu để thúc đẩy toàn cầu hoá (do sự kiện 11/9, cuộc chiến tranh Irag hoặc các lý do tương tự), Friedman đã giống lên hồi chuông cảnh báo rằng: Toàn cầu hoá 3.0 thực chất đang ở vào giai đoạn tăng tốc, nó làm cho thế giới chuyển từ cỡ nhỏ xuống cỡ siêu nhỏ và đồng thời san phẳng thế giới. Chúng ta đang sống trong một thế giới phẳng! Trong thế giới này, không chỉ các quốc gia, những tập đoàn kinh tế lớn như Dell, IBM, Wal-Mart, mà là các cá nhân ở khắp mọi nơi trên hành tinh này (chỉ cần kết nối internet và tiếp cận các công cụ của thế giới mới) có thể cộng với nhau trong những chuỗi cung toàn cầu để tạo ra những giá trị gia tăng lớn hơn. Chiếc "bánh" toàn cầu ngày càng trở nên to hơn nhưng đồng thời cũng khó chia hơn....
Xu thế toàn cầu hóa đang là đặc điểm chi phối thời đại, như chính Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X đã khẳng định. Quá trình chúng ta chủ động hội nhập quốc tế, mà việc gia nhập WTO là một biểu hiện, có cả cơ hội lẫn thách thức. Chính vì thế, việc tiếp cận và tham khảo những tri thức đương đại từ những nước đã phát triển về sự chuyển động của thế giới (đang ở bước ngoặt từ “tròn” sang “phẳng”, như cách nói của tác giả) có lẽ sẽ giúp chúng ta có thêm những thông tin bổ ích để có sự chủ động trong quá trình hội nhập.
Với mục đích cung cấp và cập nhật những thông tin đang là sự kiện dẫn đầu có giá trị tham khảo, xin giới thiệu tới bạn đọc bản dịch Việt ngữ của THE WORLD IS FLAT - tác phẩm được xếp vào danh mục sách bán chạy nhất ở Mỹ (kể từ lần xuất bản đầu tiên tháng 4/ 2005, và lần tái bản gần đây tháng 1/ 2006). Đây là bản dịch từ bản sách gốc mới nhất được cập nhật, bổ sung bởi chính tác giả.
Tập sách này thuộc "Tủ sách Doanh Trí" (Tủ sách do PACE tuyển chọn và giới thiệu)
Link to download (pls delete it after reading, do not use for commercial purpose)
My comment:
Thật tình cuốn sách này không được lôi cuốn tôi cho lắm. Nhưng dù sao tôi cũng học được thêm kiến thức vế outsrouce từ Thế Giới Phẳng. Nếu được đọc lại cuốn này, có lẽ tôi chỉ đọc 2 phần:
- QUÁ TRÌNH LÀM PHẲNG THẾ GIỚI DIỄN RA NHƯ THẾ NÀO
- KẾT LUẬN: TRÍ TƯỞNG TƯỢNG
Một vài quan điểm trong phần kết luận mà tôi thích:
Hai ngày tượng trưng cho hai hình thức tưởng tượng cạnh tranh trên thế giới ngày nay: trí tưởng tượng sáng tạo của ngày 9/11 và trí tượng tượng huỷ diệt tiêu cực của ngày 11/9. Một bên là phá huỷ một bức tường và mở ra các cánh cửa mới cho thế giới - cả hệ thống điều hành và cả loại mà chúng ta nhìn qua. Nó đã giải phóng một nửa hành tinh và làm cho những người ở đó trở thành các đối tác và đối thủ tiềm năng của chúng ta. Còn một bên thì làm sụp đổ Trung tâm Thương mại Thế giới, khép lại mãi mãi các Cửa sổ nhìn ra nhà hàng Thế giới và dựng lên những bức tường bê tông vô hình ngăn cách mọi người vào thời điểm khi chúng ta nghĩ là ngày 9/11 đã xoá sạch chúng mãi mãi.
...
Vai trò của Mĩ trên thế giới, từ khởi đầu, đã là một nước nhìn về phía trước, không về phía sau. Một trong các điều nguy hiểm nhất đã xảy ra với nước Mĩ từ 11/9, dưới chính quyền Bush, là chúng ta đã chuyển từ xuất khẩu hi vọng sang xuất khẩu sợ hãi. Chúng ta đã chuyển từ dỗ ngọt để được cái tốt nhất của thế giới sang hầm hè nó quá thường xuyên. Và khi bạn xuất khẩu sợ hãi, bạn kết thúc với nhập khẩu sợ hãi từ mọi người khác. Đúng, chúng ta cần những người có thể tưởng tượng điều tồi tệ nhất, vì điều tồi tệ nhất đã xảy ra ngày 11/9 và nó có thể sẽ lại xảy ra. Nhưng, như tôi đã nói, có một đường mảnh giữa phòng ngừa và bệnh hoang tưởng, và đôi khi chúng ta đã đi qua nó. Người Châu Âu và những người khác thường thích cười nhạo tính lạc quan và tính ngây thơ Mĩ – ý niệm điên rồ của chúng ta rằng mọi vấn đề đều có một lời giải, rằng ngày mai có thể tốt đẹp hơn ngày hôm qua, rằng tương lai sẽ chôn vùi quá khứ. Nhưng tôi luôn luôn tin rằng trong thâm tâm, phần còn lại của thế giới thèm muốn sự lạc quan và tính ngây thơ Mĩ đó, họ cần nó. Đó là một trong các thứ giúp giữ thế giới quay quanh trục của nó. Nếu chúng ta trở nên mù mịt với tư cách một xã hội, nếu chúng ta ngừng là “nhà máy mơ ước” của thế giới, chúng ta sẽ làm cho thế giới không chỉ mù mịt hơn mà còn nghèo nàn hơn.
Các nhà phân tích luôn có xu hướng đánh giá một xã hội bằng các số thống kê cổ điển về kinh tế và xã hội: tỉ lệ thâm hụt trên GDP, hay tỉ lệ thất nghiệp, hoặc tỉ lệ phụ nữ biết chữ. Các số thống kê như vậy là quan trọng và bộc lộ. Song có số thống kế khác, khó đo hơn nhiều, mà tôi nghĩ còn quan trọng và bộc lộ hơn: Xã hội bạn có nhiều kí ức hơn ước mơ hay có nhiều ước mơ hơn kí ức.
Ước mơ mà tôi nói đến là loại tích cực, khẳng định cuộc sống. Nhà tư vấn tổ chức kinh doanh Michael Hammer đã có lần nhận xét, “Một thứ cho tôi biết công ti đang gặp trục trặc là khi họ bảo tôi họ đã giỏi ra sao trong quá khứ. Với các nước cũng thế. Bạn không muốn quên đi bản sắc của mình. Tôi vui vì bạn đã vĩ đại ở thế kỉ XIV, song đó là thời ấy và bây giờ là đây. Khi kí ức vượt quá ước mơ, cái chết đến gần. Dấu hiệu của một tổ chức thành đạt thực sự là sự sẵn sàng bỏ cái đã làm nó thành công và bắt đầu mới.”
Trong các xã hội có nhiều kí ức hơn ước mơ, có quá nhiều người tốn quá nhiều ngày để nhìn về quá khứ. Họ nhìn chân giá trị, sự khẳng định và tự trọng không phải bằng khai thác hiện tại mà bằng gậm nhấm quá khứ. Và thậm chí thường không phải một quá khứ thật mà là một quá khứ được tưởng tượng và tô hồng. Quả thực, các xã hội như thế tập trung mọi trí tưởng tượng của họ vào làm cho quá khứ tưởng tượng đó đẹp hơn nó đã từng là, và rồi họ bám víu vào nó như một chuỗi tràng hạt hay một chuỗi buồn lo, hơn là tưởng tượng ra một tương lai tốt đẹp hơn và hành động theo đó. Khá nguy hiểm khi các nước khác đi theo con đường đó; sẽ là thảm hoạ cho Mĩ nếu nó mất phương hướng và đi theo hướng đó. Tôi nghĩ bạn tôi David Rothkopf, cựu quan chức Bộ Thương mại và giờ là thành viên của Quỹ Hiến tặng vì Hoà bình Quốc tế Carnegie, đã nói chí lí: “Lời giải đáp cho chúng ta không nằm ở cái đã thay đổi, mà ở nhận ra cái đã không thay đổi. Bởi vì chỉ qua sự nhìn nhận này chúng ta mới bắt đầu chú trọng đến các vấn đề cơ bản thực sự: một sự đáp ứng đa phương và có hiệu quả đối với việc phổ biến vũ khí huỷ diệt hàng loạt, tạo ra những người đặt cược (trong cuộc) trong toàn cầu hoá giữa những người nghèo, nhu cầu cải cách trong thế giới Arab, và phong cách lãnh đạo của Hoa Kì tìm cách xây dựng cơ sở cho sự ủng hộ trên toàn thế giới bằng khiến thêm nhiều người tự nguyện chấp thuận các giá trị chúng ta. Chúng ta cần nhớ rằng các giá trị đó thực sự là nền tảng cho sự an ninh và là nguồn sức mạnh của chúng ta. Và chúng ta cần nhận ra là các kẻ thù của chúng ta không bao giờ có thể đánh bại chúng ta. Chỉ chúng ta mới có thể đánh bại chính mình, bằng cách vứt bỏ bộ luật đã hoạt động cho chúng ta trong một thời gian dài.”
Tôi tin rằng lịch sử sẽ làm rất rõ là Tổng thống Bush đã trơ tráo khai thác xúc cảm quanh 11/9 vì các mục đích chính trị. Ông ta sử dụng xúc cảm 9/11 đó để đưa ra chương trình nghị sự nội địa Cộng hoà cực hữu về thuế, môi trường, và các vấn đề xã hội từ 10/9 - một chương trình mà ông ta không được sự uỷ thác của nhân dân - và đưa nó vào một thế giới 12/9. Làm như vậy, ông Bush không chỉ đóng một cái nêm giữa người Mĩ với nhau và giữa người Mĩ với thế giới, mà còn đóng một cái nêm vào giữa nước Mĩ và lịch sử và bản sắc của riêng nó. Chính quyền của ông ta đã biến Hoa Kì thành một “Hoa Kì Đánh Chủ nghĩa Khủng bố.” Theo tôi đấy là nguyên nhân thực khiến nhiều người trên thế giới ghét Tổng thống Bush đến thế. Họ cảm thấy ông ta đã lấy mất của họ một cái gì đó rất đáng quý - một nước Mĩ xuất khẩu hi vọng, không phải sợ hãi.
Chúng ta đòi tổng thống của mình trả lại 11/9 vị trí đúng của nó trong lịch - như một ngày sau 10/9 và trước 12/9. Chúng ta không bao giờ để nó trở thành một ngày định nghĩa chúng ta. Bởi vì rốt cục ngày 11/9 là về bọn họ - các kẻ xấu- không phải về chúng ta.
Chúng ta là về ngày 4/7. Chúng ta là về ngày 9/11.
Ngoài cố gắng giữ lại cái tốt nhất của những tưởng tượng của chúng ta, chúng ta có thể làm gì khác nữa với tư cách người Mĩ và một xã hội toàn cầu để thử nuôi dưỡng cùng thứ ở những người khác? Cần tiếp cận câu hỏi này hết sức khiêm tốn. Cái gì dẫn một người thích huỷ hoại, và cái gì dẫn người khác đến thích sáng tạo, cái gì khiến một người tưởng tượng 9/11 và kẻ khác tưởng tượng 11/9, chắc chắn là một trong các bí ẩn lớn của cuộc sống đương đại. Hơn nữa, trong khi đa số chúng ta có thể có manh mối nào đó về việc nuôi dưỡng một trí tưởng tượng tích cực hơn cho con cái chúng ta, và có thể - có thể - cho cả đồng bào chúng ta nữa, là quá tự phụ để nghĩ rằng ta có thể làm điều đó cho những người khác, đặc biệt là những người có nền văn hoá khác, nói tiếng nói khác, và sống xa nửa vòng trái đất. Thế mà 11/9, sự làm phẳng thế giới, sự đe doạ tiếp tục của chủ nghĩa khung bố phá vỡ thế giới gợi ý rằng không nghĩ về điều này sẽ chính là nhẹ dạ nguy hiểm. Như thế tôi cứ nhất định thử làm vậy, nhưng tôi tiếp cận vấn đề này với một nhận thức sâu sắc về các giới hạn của cái mà bất cứ người ngoài nào có thể biết hay làm.
Nói chung, trí tưởng tượng là sản phẩm của hai lực tạo hình. Một là các chuyện kể mà người ta được nuôi dưỡng - các chuyện kể và thần thoại mà họ hay bản thân các lãnh tụ tôn giáo và dân tộc của họ kể - và các chuyện kể đó đã bồi đắp cho trí tưởng tượng của họ thế nào. Lực khác là hoàn cảnh trong đó người ta trưởng thành, nó tác động to lớn đến sự hình thành cách nhìn thế giới và người khác của họ ra sao. Những người ngoài không thể đi vào trong và điều chỉnh chuyện kể Trung Quốc, Arab hay Mêhicô nhiều hơn chuyện kể Mĩ. Chỉ họ mới có thể cắt nghĩa lại chuyện kể của họ, làm cho nó khoan dung hơn hoặc hướng về phía trước hơn, và làm cho nó thích ứng với hiện đại. Không ai có thể làm điều đó cho họ hoặc cùng với họ. Nhưng có thể nghĩ về cộng tác thế nào với những người khác để thay đổi hoàn cảnh của họ - hoàn cảnh trong đó người ta lớn lên và sống cuộc sống hàng ngày của họ - để giúp nuôi dưỡng thêm nhiều người với sức tưởng tượng 9/11 hơn là 11/9
Subscribe to:
Posts (Atom)