Monday, November 30, 2009

MẬT MÃ TỪ CỔ ĐIỂN ĐẾN LƯỢNG TỬ - Simon Singh


Tác giả: Simon Singh.
Dịch giả: Phạm Vǎn Thiều. Phạm Thu Hằng.
Nhà xuất bản: Nxb Trẻ
Số trang: 492
Hình thức bìa: Bìa mềm
Kích thước: 14.5x20.5 cm
Ngày xuất bản: 07 - 2008
Trọng lượng: 600 gram
Giá bìa: 89.000 VNĐ

“Trong hàng ngàn năm, vua chúa cũng như các tướng lĩnh đều dựa vào mạng lưới thông tin liên lạc hiểu quả để cai trị đất nước và chỉ huy quân đội của mình. Đồng thời, tất cả họ đều ý thức được những hậu quả của việc để lọt thông tin của mình vào tay đối phương, để lộ những bí mật quý giá cho các nước thù địch cũng như hậu quả của sự phản bội cung cấp thông tin sống còn cho các lực lượng đối kháng. Chính nỗi lo sợ bị kẻ thù xem trộm đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của mật mã: đó là những kỹ thuật nhằm che giấu, ngụy trang thông tin, khiến cho chỉ những người cần được nhận mới có thề đọc được.

Mong muốn giữ bí mật đã khiến các quốc gia thiết lập những cơ quan mật mã, có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho thông tin liên lạc bằng việc phát mình và sử dụng những mật mã tốt nhất có thể được. Trong khi đó, những người phá mã của đối phương cũng lại cố gắng để giải mã và đánh cắp những bí mật. Người giải mã là những nhà “giả kim thuật” về ngôn ngữ, một nhóm người bí ẩn chuyên tìm cách phỏng đoán những từ ngữ có nghĩa từ những ký hiệu vô nghĩa. Lịch sử của mật mã là câu chuyện về cuộc chiến kéo dài hàng thế kỷ giữa người lập mã và người giải mã, cuộc chạy đua vũ khí trí tuệ đã có tác động rất to lớn đến tiến trình của lịch sử.

Khi viết cuốn Mật mã này, tác giả có hai mục đích chính. Một là nhằm phác họa sự tiến hóa của mật mã. Từ tiến hóa dùng ở đây là hoàn toàn thích hợp vì sự phát triển của mật mã cũng có thể coi là một cuộc đấu tranh tiến hoá. Một mật mã luôn bị người phá mã tấn công. Khi người phá mã đã tìm ra một vũ khí mới để phát hiện điểm yếu của một mật mã thì mật mã đó không còn hữu dụng nữa. Khi đó hoặc nó sẽ bị xoá sổ hoặc nó sẽ được cải tiến thành một loại mật mã mới, mạnh hơn. Đến lượt mình, mật mã mới này chỉ phát triển mạnh mẽ cho tới khi người phá mã lại xác định được điểm yếu của nó, và cứ tiếp tục mãi như vậy. Điều này cũng tương tự như tình huống đối mặt với một giống vi khuẩn gây bệnh chẳng hạn. Vi khuẩn sống, phát triển mạnh và tồn tại cho đến khi bác sĩ tìm ra chất kháng sinh làm lộ ra những điểm yếu của vi khuẩn và tiêu diệt nó. Vi khuẩn buộc phải tiến hoá và lừa lại kháng sinh, và nếu thành công thì chúng sẽ lại phát triển mạnh mẽ và tái xác lập trở lại. Vi khuẩn liên tục bị buộc phải tiến hoá để sống sót trước sự tấn công dữ dội của các loại kháng sinh mới.

Cuộc chiến liên miên giữa người lập mã và người phá mã đã thúc đẩy hàng loạt những đột phá khoa học đáng kể. Người lập mật mã đã liên tục cố gắng xây dựng những loại mã mạnh hơn bao giờ hết để bảo vệ thông tin, trong khi những người phá mã cũng lại kiên trì tìm ra những phương pháp mạnh hơn nữa để phá vở chúng. Trong những cố gắng nhằm phá vỡ và bảo vệ thông tin bí mật, cả hai phía đã phải huy động nhiều lĩnh vực chuyên môn và công nghệ khác nhau, từ toán học cho tới ngôn ngữ học từ lý thuyết thông tin cho đến lý thuyết lượng tử. Đổi lại, những người lập mã và phá mã cũng đã làm giàu thêm cho những lĩnh vực này và thành quả của họ đã đẩy nhanh tốc độ phát triển cộng nghệ, mà đáng kể nhất là trong lĩnh vực máy tính hiện đại…”

Mục lục:

Mở đầu

Bản mật mã của nữ hoàng Mary xứ Scotland

Le Chiffre Indécheffable

Cơ giới hoá việc giữ bí mật

Công phá Enigma

Rào cản ngôn ngữ

Alice và Bob ra công khai

Riêng tư tốt đẹp

Bước nhảy lượng tử vào tương lai



Trong lịch sử nhân loại đã xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc, như hai cuộc thế chiến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, bên cạnh những cuộc chiến bên ngoài chiến trường, thì ẩn bên trong nó lại là một cuộc chiến khác: cuộc chiến về thông tin. Đã có truyền tin thì tất nhiên cần phải có yêu cầu giữ bí mật. Thế là ngành khoa học mật mã (cryptography) ra đời để phục vụ cho yêu cầu đó.



Cuốn sách “Mật mã” (The Code Book) sẽ dẫn dắt chúng ta nhìn lại lịch sử dưới góc nhìn của mật mã học. Cuốn sách bắt đầu bằng những dạng mật mã đơn giản nhất ra đời từ cuối thế kỷ 16 và kết thúc ở cuối thế kỷ 20 bằng việc giới thiệu về ý tưởng mật mã lượng tử, một loại mật mã được cho là bất khả chiến bại dựa trên lý thuyết lượng tử.



Simon Singh, tác giả cuốn sách, là tiến sĩ vật lý người Anh gốc Ấn Độ. Ông là một nhà khoa học tài năng và đã từng có nhiều đóng góp đáng kể trong việc phổ biến khoa học dưới nhiều hình thức: từ viết sách đến tham gia làm phim tài liệu khoa học. Ngoài cuốn The Code Book, trước đó ông còn là tác giả một cuốn sách khá nổi tiếng Fermat’s Last Theorem (Định lý cuối cùng của Fermat), và chính ông cũng là đạo diễn bộ phim tài liệu cho chuyên mục Horizon của BBC (chuyên mục nói về lĩnh vực khoa học công nghệ) về đề tài định lý Fermat này.



Cuốn sách The Code Book được Simon Singh trình bày rất dễ hiểu, bạn không cần phải lo cho dù bạn không thật sự giỏi về toán học, vì mỗi khi gặp một khái niệm toán học có vẻ lạ lẫm thì Simon sẽ dừng lại vài dòng, thậm chí cả trang sách, để giải thích nó rồi mới đi tiếp. Do đó chỉ cần bạn biết làm bốn phép tính cộng-trừ-nhân-chia cùng với một sự tò mò về thế giới mật mã là đủ để đọc cuốn sách.



Ban đầu, người ta chỉ nghĩ ra những loại mật mã đơn giản, đủ để che giấu nội dung thông tin. Kiểu như xáo trộn vị trí các chữ cái, hay là thay thế chữ cái này bằng một chữ cái khác, v.v… Nhưng chẳng bao lâu sau thì những loại mật mã thế này đều bị các nhà giải mã phá được. Thế là có sự liên tục đổi mới trong cách tạo mã tạo ra một cuộc chiến trường kỳ giữa những nhà tạo mã và những nhà giải mã. Có người giải mã ra được thì bắt đầu nảy sinh tìm loại mật mã mới, và khi một loại mật mã mới ra đời thì các nhà giải mã lại phải lao đầu vào nghĩ cách hóa giải. Thậm chí người ta phải lập ra những đội ngũ chuyên nghiệp chỉ để làm công việc giải mã thông tin của đối phương.



Trong lịch sử mật mã học, có những bước ngoặt đáng kể đã góp phần không nhỏ trong việc quyết định lịch sử thế giới nói chung.



1. Máy Enigma



Bước ngoặt đầu tiên chính là việc cơ giới hóa việc tạo mã, bằng sự ra đời của hệ thống mật mã Enigma. Đây chính là vũ khí lợi hại nhất cũng như là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của Đức quốc xã trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Chính cái máy Enigma này là nguồn động lực làm nảy sinh ra những ý tưởng đột phát về công nghệ trong thế kỷ 20. Ý tưởng vĩ đại nhất có lẽ thuộc về Alan Turing, người có công lớn nhất trong việc hóa giải máy Enigma, khi trong quá trình giải mã Enigma ông đã hình thành một ý niệm về một cỗ máy được gọi là Turing Machine - tiền đề cho sự phát minh máy tính sau này.



Ngoài ra, cũng vào thời kỳ thế chiến thứ hai thì lịch sử khoa học mật mã đã chứng kiến một loại mật mã bất khả xâm phạm đúng nghĩa của nó. Đó là loại mật mã dùng ngôn ngữ của người địa phương Navajo đang sinh sống tại vùng đất Arizona ở Mỹ. Navajo là một bộ lạc rất nhỏ, và thổ âm Navajo là một dạng ngôn ngữ cực kỳ hiếm gặp, cả nước Mỹ ngoại trừ vài ba chục người là có nghiên cứu, ngoài ra nếu không phải là người Navajo thì trên thế giới chẳng một ai có thể hiểu nổi ngôn ngữ này. Người Mỹ đã dùng ngôn ngữ này cùng với những người Navajo biết tiếng Anh làm mật mã liên lạc, và họ đã có được một hệ thống mật mã tuyệt đối an toàn.



Như vậy có thể nói thế chiến thứ hai chính là cuộc chiến cân não giữa hai phe tạo mã và giải mã. Nếu như ngày đó, Alan Turing vì một lý do nào đó không thể hoàn thành sứ mệnh giải mã Engima của mình, thì có lẽ lịch sử thế giới đã rẽ sang một hướng khác.



2. Giải mã các văn tự cổ xưa



Một đỉnh cao trong lịch sử mật mã học cũng như khảo cổ học chính là việc giải mã những văn tự cổ xưa bao gồm những chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại cũng như chữ Linear B nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại đã nhờ vào phiến đá Rosetta (Rosetta Stone, là phiến đá trên đó có chữ tượng hình Ai Cập kèm với chữ demotic và chữ Hy Lạp) làm cơ sở để giải mã. Jean-Francois Champollion là người đã hoàn thiện việc giải mã các chữ tượng hình này, và thành quả này của ông còn có một phần không nhỏ đóng góp của một nhà khoa học đa năng Thomas Young.



Nếu như chữ tượng hình Ai Cập cổ đại còn có Rosetta Stone làm cơ sở giải mã thì chữ Linear B hoàn toàn không có gì. Dù vậy nó vẫn được giải mã bởi Michael Ventris, vốn là một kiến trúc sư, với sự góp sức của nhà nghiên cứu Hy Lạp cổ đại John Chadwick. Có thể nói việc giải mã được các văn tự cổ xưa đã cho thấy sức sáng tạo và tưởng tượng của con người dường như không có giới hạn, và đó cũng chính là một bước ngoặt khác trong lịch sử nhân loại trong việc khám phá lịch sử các nền văn minh cổ đại.



3. Phân phối chìa khóa mã



Trong khoa học mật mã, có một vấn đề cực kỳ quan trọng, mà mãi sau thế chiến thứ hai thì người ta mới tìm ra cách giải quyết triệt để nó. Đó chính là vấn đề phân phối chìa khóa mã. Muốn giải mã thì bắt buộc phải có chìa khóa, và làm thế nào để người nhận có được chìa khóa mã một cách an toàn nhất. Có lẽ chỉ có cách gặp mặt trực tiếp nhau, vì nếu trao đổi qua vô tuyến thì sẽ bị rò rỉ thông tin ngay. Hãy tưởng tượng bạn tạo ra mật mã để liên lạc với hàng ngàn người trên thế giới, và phải gặp mặt từng người để trao chìa khóa mã, thế thì sẽ phải tốn rất nhiều nguồn nhân lực và chi phí chỉ để phục vụ cho chuyện phân phối chìa khóa này. Như vậy với việc kinh tế phát triển, nhu cầu đòi hỏi bảo mật thông tin ngày càng cao với mật độ ngày càng lớn, thì việc làm sao phân phối chìa khóa mã một cách an toàn và hiệu quả nhất đã trở thành một bài toán nhức đầu khác cho giới khoa học mật mã.



Đã có một ý tưởng nhen nhóm lên cho việc giải quyết vấn đề này. Hãy tưởng tượng thông tin cần được gửi là bức thư đựng trong một hộp sắt, với ổ khóa chính là mật mã dùng để mã hóa bức thư, và chìa khóa mở ổ khóa chính là chìa khóa mã. Anh A giờ đây muốn đưa thông tin cho anh B thì phải tìm cách làm sao đưa luôn chìa khóa mã cho anh B mà không cần phải gặp mặt. Đặt trường hợp là nếu gửi chìa khóa qua bưu điện thì cơ may chìa khóa bị lọt ra ngoài là rất cao. Thế là A và B quyết định thế này: anh A dùng một cái hộp có 2 lỗ khóa để có thể khóa lại bằng 2 ổ khóa. Anh A bóp ổ khóa của mình lại, ổ khóa A, và giữ chìa khóa A cho riêng mình. Đưa sang anh B, anh B lại dùng ổ khóa của mình, ổ khóa B, để khóa cái hộp thêm lần nữa, và cũng giữ chìa cho riêng mình, rồi gửi về lại anh A. Anh A thấy lúc này cái hộp đã được khóa tới 2 ổ khóa, nên đã lấy chìa của mình mở ổ khóa A, xong rồi gửi sang anh B. Lúc này cái hộp còn lại duy nhất một ổ khóa mà chỉ anh B mới mở được, nên cho dù cái hộp bị đánh cắp thì người ta cũng chẳng tài nào mở nổi. Và anh B chỉ việc lấy chìa của mình mở ổ khóa B rồi đọc thư.



Tuy nhiên, ý tưởng là thế, nhưng trong khoa học mật mã nếu áp dụng đúng như vậy thì sẽ nảy sinh một vấn đề khác thuộc về logic: đó là trình tự giải mã. Cái hộp có 2 ổ khóa, mở ổ nào trước đi nữa thì cái hộp cũng được mở ra. Nhưng một văn bản được mã hóa cần phải được giải mã theo trình tự “vào trước-ra sau”. Tức là nếu văn bản được mã hóa 2 lần thì người nào mã hóa sau cùng sẽ phải giải mã nó đầu tiên nếu muốn bức thư hoàn toàn được giải. Trở lại câu chuyện lúc nãy, vì anh B mã hóa bức thư cuối cùng nên anh B phải giải mã bức thư ra đầu tiên, rồi đưa anh A giải mã lần nữa thì bức thư mới có thể đọc được, nhưng anh B mới là người cần đọc bức thư, nên nếu làm vậy thì khi bức thư được giải mã hoàn toàn thì nó lại ở chỗí anh A, như vậy thì cũng vô dụng.



Dù ý tưởng có điểm không logic như vậy, đó chính là động lực cho các nhà khoa học mật mã đi tìm lời giải. Ở khúc này có một chi tiết cực hay liên quan đến việc tạo mã, chính chi tiết này đã giúp cho người ta vượt qua được sức ì tâm lý bao lâu nay để giải quyết được vấn đề phân phối chìa khóa mã. Từ đó hình thành loại mật mã mới khác, đuợc cho là không thể phá vỡ, vào cuối thế kỷ 20: mật mã RSA.



4. Mật mã lượng tử



Tuy vào thời điểm cuối thế kỷ 20, RSA là mật mã cực mạnh rồi, nhưng người ta lại phải đối diện với nguy cơ nó sẽ bị phá vỡ. Lúc này, lý thuyết lượng tử bắt đầu đóng vai trò của nó. Sở dĩ mật mã RSA không bị phá nổi là vì hạn chế ở các máy tính, cho dù máy tính có phát triển kiểu tốc độ xung tăng gấp đôi sau 18 tháng thì cũng phải mất cả ngàn năm mới đủ mạnh để phá vỡ RSA. Thế nhưng với một máy tính lượng tử thì chỉ mất dăm ba phút. Để đối phó trước với sự xuất hiện máy tính lượng tử sau này, người ta bắt đầu nghĩ đến một dạng mật mã tuyệt đối, tức là mãi mãi không thể phá vỡ. Và khái niệm về mật mã lượng tử đã ra đời.

Có thể thấy ngành khoa học mật mã đã quy tụ rất nhiều lĩnh vực: từ toán học, đến ngôn ngữ học, và rồi lý thuyết lượng tử của ngành vật lý học cũng góp mặt vào. Không chỉ trình bày về những loại mật mã khác nhau qua từng thời kỳ, mà Simon Singh còn thông qua mật mã học để kể các câu chuyện lịch sử, những câu chuyện bên lề của những nhà khoa học thiên tài như Alan Turing, Thomas Young, Jean-Francois Champollion, Michael Ventris,v.v… Do vậy đây hoàn toàn không phải là một cuốn sách khô khan toàn số với chữ cùng những công thức toán học này nọ. Trái lại những câu chuyện mang tính lịch sử trong cuốn sách sẽ khiến người đọc cảm giác như đang đọc một cuốn tiểu thuyết trong đó nội dung chính là cuộc chiến cân não giữa hai phe lập mã và giải mã.


=> sách hay, đáng để đọc và tìm hiểu về quá trình tiến hoá của mật mã và cách phá giải từng loại mật mã nhờ vào sự cần mẫn (kiểm tra tần suất), trí thông minh (thuật toán), một chút may mắn (gián điệp), tàn nhẫn (thả bom để đánh cắp bản mã).
Trong xuyên suốt quá trình phát triển của mật mã, vấn đề tạo khoá mã và phân phối khoá mã luôn là những vấn đề nhức đầu của cả phe tạo mã lần giải mã. Và đây cũng là cả 1 cuộc chiến tiếp diễn.
Đọc sách này hiểu thêm được 1 số từ khoá, hiểu được mật mã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong chiến tranh, hiểu thêm ngôn ngữ cũng là một loại mật mã (văn tự cổ cũng có thể xem là ngôn ngữ của người xưa), mỗi tiền cũng là một loại mật mã.
Phần cuối của sách là về thuyết lượng tử, cách tạo tiền photon thú vị nhưng khó hiểu quá.

Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá




Tác giả: Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Hợp tác phát hành: VNN Publishing
Dòng sách: VNN Other
Khổ sách: 15x22
Kiểu sách: Bìa cứng
Số trang: 556
Giá bìa: 80.000
Thời gian xuất bản: Quý II/209


NXB Chính trị Quốc gia giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm về kinh tế Việt Nam của hai tác giả Phạm Minh Chính và Vương Quân Hoàng.

Bản thảo Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá khép lại vào lúc mà lãi suất cơ bản và lãi suất huy động - cho vay thương mại ở Việt Nam đang giảm nhanh sau một năm 2008 căng thẳng. Thông tin tài chính của tốp doanh nghiệp niêm yết dẫn đầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam ở cả hai đầu Tổ quốc đang hé lộ cho bức tranh kinh tế le lói ánh sáng đường ra trong cơn sóng gió tài chính nổi lên từ tháng 10 năm 2007. Tới cuối năm 2008, tỷ lệ lạm phát của cả năm giảm xuống còn 19,9% thay vì 25% - 30% như đã từng được dự báo. Những lo lắng về mức giá cả tăng cao được thay bằng quan ngại về khả năng suy giảm và đình trệ tăng trưởng kinh tế.

Với mức tăng trưởng 6,18% cho năm 2008, nền kinh tế Việt Nam vẫn được xem có mức tăng trưởng ấn tượng trong một bối cảnh toàn cầu ảm đạm. Nhưng ngay ở thời điểm này, chưa ai dám nghĩ tới sự chấm dứt các rắc rối của chuỗi vấn đề kinh tế vi mô và vĩ mô đan xen nhau... Cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 12 năm 2008 đã chấm dứt sứ mệnh của 25 ngân hàng thương mại Hoa Kỳ, chỉ trong một năm, tính từ tháng 10 năm 2007. Bão tố đã lan đi khắp nơi, sang cả Tây Âu, Đông Âu, Nam Mỹ và châu Á. Có lẽ, không một ngóc ngách nào của nền kinh tế toàn cầu, đang được đặt trong các nỗ lực nhất thể hóa cao độ của WTO, WB, IMF cũng như nhiều tổ chức đa phương quốc tế khác, lại có thể miễn nhiễm khỏi căn bệnh tụt huyết áp tài chính ghê gớm này.

Bên cạnh những khó khăn khiến cho đời sống của hàng tỷ con người khắp trái đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng, những lý thuyết kinh tế học và phương pháp ứng xử quy mô lớn cho các quốc gia, không phân biệt giàu - nghèo, lớn - bé, cũng đang bị thách thức nghiêm trọng. Niềm tin vào các hệ thống lý thuyết được xây dựng từ nhiều thập kỷ, và đặc biệt phát triển lên tầm cỡ đỉnh cao sau cuộc Đại suy thoái 1929-1933, đang bị xói mòn. Hệ thống kinh tế học ấy như một cơ thể cường tráng, bị những căn bệnh quái ác làm cho suy sụp. Những căn bệnh sinh ra bởi các đoàn quân virus đang làm xói mòn sức chống đỡ của niềm tin.

Không thể không tự hỏi, vậy sự phát triển trong hơn 20 năm Đổi Mới của Việt Nam nằm ở đâu trong lịch sử của dân tộc, của nền kinh tế toàn cầu đương đại và của số phận nhân loại. Có lẽ, không một ai, với sự tâm huyết dành cho dân tộc Việt Nam, sự trăn trở và những nỗ lực của người Việt Nam, lại không thấy được nỗi truân chuyên của một hành trình đầy thăng trầm, những bước đột phá và cả những bài học sâu sắc, không chỉ dành cho nhận thức lịch sử, mà còn có cả ý nghĩa hướng tới giải pháp tương lai.

Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá được viết ra với tinh thần như thế: vì Việt Nam, do Việt Nam và của Việt Nam.

Để phản ánh thực tế của một tiến trình dài lâu, cuốn sách được viết thành ba phần cơ bản. Phần I là các quá trình với những thay đổi có mặt tích cực, có mặt hạn chế, trải dài theo thời gian mà ký ức về chúng vẫn còn in sâu trong nhiều thế hệ công dân. Phần II, đã có những đột phá được chủ kiến đúng và cả sự thúc ép của các điều kiện kinh tế. Những đột phá ấy được xem xét trong cuốn sách như những phạm trù trọn vẹn, là những điểm nhấn làm sáng rõ các hành trình thời gian mà số đông sự kiện có thể che khuất bản chất “đột phá” của những sự kiện có tính chất bước ngoặt, như thay đổi cấu trúc, chuyển hướng tư duy, bứt phá về mô hình. Phần III, các vấn đề kinh tế vi mô và vĩ mô thường không chỉ xuất hiện một lần, mà lặp đi lặp lại, ở các dạng thức khác nhau, lúc ẩn lúc hiện. Có những vấn đề và bài học mà ích lợi của việc nhận thức, sự đột phá về cơ cấu và tư duy kinh tế không bị bó hẹp trong một khoảng không gian và thời gian cụ thể. Đó còn là những quy luật phổ quát, có xu hướng lặp lại và biến thể mỗi lúc một phức tạp và bất ngờ hơn.

Ba phần này tiếp cận nền kinh tế như một chỉnh thể sống trong không gian và thời gian hợp lý, có tính lôgic và những nhận thức có lợi cho tư duy kinh tế lâu dài.

Cần phải nói ngay rằng trọng tâm được trình bày trong cuốn sách là hệ thống các thị trường và phương tiện kiểm soát tài chính tiền tệ. Lý do thật đơn giản là vì: Công cụ tài chính tiền tệ ngày nay đã trở thành vũ khí chủ lực để các thể chế và chính phủ sử dụng chống lại những kẻ thù kinh tế, ẩn mình dưới những biến động bất thường, có tính tàn phá và làm xói mòn sự bền vững của nền tảng kinh tế. Một phần quan trọng khác là nền kinh tế thị trường có sự kiểm soát của Nhà nước ngày càng rõ rệt ở Việt Nam, trong đó các thị trường tài chính có ảnh hưởng ngày một mạnh mẽ.

Chủ thể của 538 trang sách là nền kinh tế của Việt Nam, với trọng tâm nghiên cứu đặt vào hệ thống tài chính - tín dụng - tiền tệ. Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế Việt Nam được trình bày với mong muốn để lại trong độc giả những suy nghĩ về hành trình tiếp tục chinh phục nền kinh tế toàn cầu cùng giấc mơ nước Việt Nam thịnh vượng.

Các nhà quản lý, nghiên cứu chính sách, đầu tư, giới phân tích, người quan tâm kinh doanh, có nhu cầu tìm hiểu kiến thức kinh tế - xã hội tìm thấy ở cuốn sách nguồn tra cứu thuận tiện với các thuật ngữ, vấn đề, hiện tượng nổi trội của kinh tế Việt Nam được liệt kê cùng số trang tương ứng trong phần Tra cứu ở cuối sách.

Một vài ý phân tích có thể được lặp lại ở các phần khác nhau của cuốn sách do các vấn đề và hiện tượng đặc trưng có tính phổ quát trong nền kinh tế. Bong bóng tài sản tồn tại cả với thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán. Hiện tượng nhập siêu từng xuất hiện trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, lặp lại ở giai đoạn 1986-1988, được bàn tiếp trong những năm 1994-1998, và lại có trong chương trình nghị sự của các kỳ họp Quốc hội năm 2008. Hiện tượng “bầy đàn” thể hiện rất rõ ràng qua hình ảnh chen nhau mua vàng vào lúc giá lên, vay mượn mua chứng khoán lúc VN-Index ở đỉnh, thế rồi, lại đổ xô đi đặt lệnh bán khi chỉ số giá sụt giảm.

Một lẽ tự nhiên, một hành trình dài với nhiều thay đổi quan trọng đã để lại nhiều câu hỏi trong quá khứ và có thể sớm gặp lại trong tương lai. Những vòng xoáy của thăng trầm và những đột phá lớn cũng đặt ra các vấn đề rất bản chất, hữu cơ với hệ thống kinh tế chính trị của đất nước. Những vấn đề ấy không nhất thiết phải có một câu trả lời duy nhất đúng, một đáp án được sắp sẵn để sử dụng.

Các vấn đề kinh tế học ngày càng cho thấy rõ bản chất kinh tế - chính trị đan xen phức tạp, với các hệ thống lợi ích tổng thể hay cục bộ, thống trị hay phục tùng. Nền kinh tế Việt Nam đang mỗi lúc một tiến sát tới biên giới của các hệ thống trò chơi kinh tế - chính trị tác động qua lại hết sức rắc rối của các lực lượng đến từ toàn cầu.

Có thể coi đây là một cuộc chiến không khoan nhượng về lợi ích, mà về lâu dài, các mỹ từ như “cùng có lợi”' hay “chia sẻ lợi ích” hoặc “thương mại công bằng'”... là những khoảng dừng dễ thở của một cuộc leo dốc cạnh tranh quyền lợi khốc liệt, giành giật và kiểm soát tài nguyên, khống chế các vũ khí kinh tế có thể điều khiển các bộ phận kinh tế nòng cốt... như đã từng thấy với dầu mỏ, vàng, mặt nước, phân phối điều tiết dòng tài chính, v.v...

Vậy những suy nghĩ về đường hướng phát triển kinh tế của chính người Việt Nam đâu? Ai quan tâm? Ai đã làm gì? Ai được hưởng? Như đã từng vượt qua những ghềnh thác đầy thách thức của lịch sử, những biến cố kinh tế mới đây và sẽ còn tiếp tục trong tương lai được coi là cơ hội để nền kinh tế thị trường non trẻ của Việt Nam điều chỉnh thích ứng hợp lý, tích lũy kinh nghiệm và năng lượng cho một thời kỳ phát triển mới của lịch sử kinh tế đương đại Việt Nam.

Cuốn sách được biên soạn trong một thời gian dài, với rất nhiều công sức và tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tuy nhiên, sai sót là không thể tránh khỏi. Các tác giả cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã phối hợp biên tập và xuất bản cuốn sách, giới thiệu cuốn sách tới độc giả cả nước.

Và cuối cùng, cũng là quan trọng nhất, các tác giả gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới bạn đọc và rất mong được độc giả đóng góp ý kiến để tiếp tục hoàn thiện cuốn sách.

Phạm Minh Chính và Vương Quân Hoàng

=> sách hay, đáng mua đáng đọc.
Tớ thích cuốn này ở cách tiếp cận, tác giả sử dụng các phương pháp định lượng để chứng minh cho phần trình bày, giúp tớ hiểu thêm về cách thức sử dụng một số phương pháp định lượng.
Sách trình bày bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ những hạt mầm đầu tiên, mô tả lại tình hình của những ngày thực hiện việc đổi tiền, sự chuyển mình của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang hai cấp cho đến việc thành lập, sáp nhập các NHTM Việt Nam. Đây là bức tranh rõ ràng có hệ thống.
Sách còn cung cấp những nét cơ bản và lịch sử hình thành cua 4 loại hình đầu tư chính, gần gũi với người Việt nam: tiền đồng, vàng, đôla Mỹ và bất động sản. Ngoài ra còn có thị trường cổ phiếu, trái phiếu.
Có thể những thông tin trong sách không là thông tin mới với nhiều người đọc nhưng chưa có cuốn sách nào viết về thị trường ViệtNam có hệ thống như cuốn này. Có những cảm nhận khác nữa nhưng để mọi người tự đọc và có thêm cảm nhận, viết hết thì còn gì để đọc.

Kinh tế Việt Nam 2008 - Suy giảm và thách thức đổi mới



Tác giả : CEPR (Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách)
Số trang : 360 trang
Giá bìa : 62000 VNĐ
Khổ sách : 16 x 24 cm
Loại bìa : Mềm
Phát hành : Công ty CP Đại lý xuất bản VNN
Năm xuất bản : 2009

Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam của CEPR là các báo cáo được xuất bản hằng năm nhằm tổng kết những thành tựu và khó khăn, cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời thảo luận có chọn lọc một số vấn đề kinh tế lớn ở mức chuyên sâu. Các vấn đề kinh tế đó được ngụ ý là những vấn đề quan trọng của năm đó và/hoặc có vai trò quan trọng trong những năm tới. Các vấn đề này được nhóm tác giả lựa chọn trên cơ sở tham khảo ý kiến của giới chuyên gia kinh tế trên một cơ sở rộng rãi và khoa học.

Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số báo cáo kinh tế thường niên được các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền xuất bản. Đây là những báo cáo có giá trị tham khảo cao, với số liệu được cập nhật chi tiết và hệ thống. Tuy nhiên, các báo cáo này đều có khuynh hướng bao quát những vấn đề lớn của nền kinh tế trong một cấu trúc tương đối ổn định, mà không đi chuyên sâu vào từng chủ đề theo từng năm hay từng thời kỳ. Thêm vào đó, đa phần các báo cáo này đều do các cơ quan chức năng của chính phủ xây dựng, mà không phải do một tổ chức học thuật trong trường đại học xuất bản.

Do đó, Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam của CEPR được xây dựng với những đặc thù mới và khác biệt như sau:

1. Có cấu trúc khác với cấu trúc của các báo cáo truyền thống. Nội dung được tổ chức theo cơ cấu gồm một hoặc hai chương đầu tiên đánh giá tổng quan nền kinh tế thế giới và Việt Nam trong năm nghiên cứu. Tiếp đó, là các chương đi sâu vào từng chủ đề quan trọng của năm hoặc trong năm tới. Nội dung của mỗi chương mang tính độc lập tương đối, có đầy đủ các thành phần của một bài nghiên cứu hướng tới giải quyết vấn đề được nêu. Vì vậy, mỗi chương không chỉ đơn thuần mang tính thống kê hoặc phân tích hiện tại, mà còn cung cấp cơ sở lý luận, hệ thống hoá lý luận và kinh nghiệm lịch sử của vấn đề. Trên cơ sở đó, đưa ra những thảo luận và gợi ý chính sách trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Do các chủ đề được chọn sẽ thay đổi theo từng năm, tập hợp của Báo cáo qua các năm được kỳ vọng sẽ có ý nghĩa tham khảo mang tính hệ thống, và có ý nghĩa nhiều hơn một năm.

2. Cơ quan chuyên môn tổ chức thực hiện báo cáo, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR), là một tổ chức nghiên cứu thuộc trường đại học, do đó, có ý thức duy trì những nhận định và thảo luận mang tính khách quan và độc lập nhất có thể (trong mối tương quan với các cơ quan chức năng của chính phủ hoặc cơ quan lập chính sách.) CEPR cũng không chịu sự chi phối của một hay một nhóm doanh nghiệp, hoặc các tổ chức quốc tế.

3. Nhóm tác giả được CEPR mời tham gia đều là các nhà kinh tế hoặc chuyên gia kinh tế có tư duy và tiếng nói độc lập. Thành phần nhóm tác giả có thể thay đổi theo từng năm, phụ thuộc vào các chủ đề chuyên sâu trong mỗi năm. Tuy nhiên, về tổng thể, toàn bộ các tác giả đều thuộc thế hệ các nhà kinh tế trẻ của Việt Nam, được đào tạo chuyên sâu tại các nước phát triển, sử dụng công cụ nghiên cứu hiện đại, giàu kinh nghiệm với thực tiễn kinh tế Việt Nam, và tâm huyết với quá trình phát triển của đất nước. Trong quá trình xây dựng Báo cáo, nhóm tác giả cũng thực hiện các buổi toạ đàm chuyên sâu để lấy ý kiến đóng góp và phản biện từ các nhà kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.

4. Ngoài mục đích cung cấp thông tin, tri thức cho người đọc là doanh nghiệp, tổ chức và giới nghiên cứu, Báo cáo còn được kỳ vọng như một kênh thảo luận và đối thoại chính sách hữu hiệu với Chính phủ và các cơ quan chức năng trong lĩnh vực quản lý kinh tế.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) mong muốn các tổ chức, cá nhân hay doanh nghiệp cùng tham gia đồng tổ chức việc thực hiện Báo cáo hằng năm, trên cơ sở đóng góp nguồn trí tuệ, tài chính và các nguồn lực cần thiết khác. Trong sản phẩm đầu tiên của loạt báo cáo này, Báo Sài Gòn Tiếp thị đã cùng CEPR hợp tác đồng tổ chức thực hiện dự án báo cáo cho năm 2009. Ấn phẩm mà độc giả đang cầm trên tay là kết quả của chương trình hợp tác đó.
Chúng tôi hy vọng rằng dự án Báo cáo Thường niên Kinh tế của CEPR sẽ lôi cuốn được nhiều tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong những năm tiếp theo, để Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) có thể cho ra đời những báo cáo khoa học và kịp thời về nền kinh tế Việt Nam.



Hà Nội, ngày 27/04/2009
TS. Nguyễn Đức Thành
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội



*****

Một số thông tin về các đơn vị tổ chức thực hiện Báo cáo

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH (CEPR) được thành lập ngày 07/07/2008, là trung tâm nghiên cứu trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. CEPR có tư cách pháp nhân, đặt trụ sở chính tại hiệu bộ Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tại Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội.



Mục tiêu của CEPR là thực hiện các nghiên cứu kinh tế và chính sách nhằm giúp nâng cao chất lượng ra quyết định của các cơ quan hoạch định chính sách, doanh nghiệp và các nhóm lợi ích, dựa trên sự thấu hiểu bản chất của những vận động kinh tế và quá trình điều hành chính sách vĩ mô ở Việt Nam. Hoạt động chính của CEPR bao gồm phân tích định lượng các vấn đề của nền kinh tế và tác động của chúng tới các nhóm lợi ích; tổ chức các hội thảo đối thoại chính sách với mục đích tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo doanh nghiệp và tổ chức xã hội cùng gặp gỡ, trao đổi nhằm đề xuất giải pháp cho các vấn đề chính sách nổi cộm; đồng thời tổ chức các khóa đào tạo nâng cao về kinh tế, tài chính và phân tích chính sách.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Địa chỉ: Phòng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 / Fax: (84) 4 3704 9921
Email: Info@cepr.org.vn / Website: www.cepr.org.vn



BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ được thành lập ngày 15/04/1999, là cơ quan ngôn luận của Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh, có trụ sở chính tại 25 Ngô Thời Nhiệm, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.

Báo Sài Gòn Tiếp thị
25 Ngô Thời Nhiệm, Phường 6, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh
Tel: (84) 8 3930 5473 - 39305474 / Fax: (08) 39305470
Email: sgtt@sgtt.com.vn / Website: www.sgtt.com.vn

*****



Các tác giả

TS. Phạm Thế Anh: tốt nghiệp TS kinh tế ở Anh, chuyên gia về kinh tế vĩ mô và dự báo, từng tham gia Nhóm Tư vấn Chính sách của Bộ Tài chính, giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân, kiêm Nghiên cứu viên cao cấp của CEPR.

TS. Từ Thuý Anh: tốt nghiệp TS kinh tế ở Mỹ, chuyên gia kinh tế quốc tế, giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội, cộng tác viên của CEPR.

TS. Phạm Văn Hà: tốt nghiệp TS kinh tế tại Australia, chuyên gia kinh tế vĩ mô và mô hình hóa (CGE), hiện đang làm việc trong một dự án của UNDP, cộng tác viên của CEPR.

TS. Lê Hồng Giang: tốt nghiệp TS kinh tế ở Australia, chuyên gia kinh tế vĩ mô, tài chính quốc tế và mô hình hóa, nguyên giảng viên Chương trình Kinh tế Fulbright tại TP. Hồ Chí Minh, Giám đốc Quỹ Ngoại hối của công ty đầu tư Tactical Global Management, Australia.

Th.S Jago Penrose: tốt nghiệp ở Anh, nguyên là chuyên gia kinh tế của UNDP Việt Nam, chuyên gia về tổ chức doanh nghiệp và các ngành công nghiệp, nghiên cứu viên cao cấp của CEPR.

TS. Nguyễn Đức Thành: tốt nghiệp TS kinh tế ở Nhật, chuyên gia về kinh tế vĩ mô, từng tham gia Nhóm Tư vấn Chính sách của Bộ Tài chính, là giảng viên Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc kiêm Kinh tế trưởng của CEPR.

TS. Tô Trung Thành: tốt nghiệp TS kinh tế ở Anh, giảng viên Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế vi mô và kinh tế lượng, các mô hình dự báo, cộng tác viên của CEPR.
Mục lục sách

Lời giới thiệu
Nhà tổ chức
Các tác giả
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục hình và đồ thị
Danh mục bảng
Danh mục hộp
Danh mục các chữ viết tắt
Tóm tắt

TS. LÊ HỒNG GIANG
Khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới 2008
Dẫn nhập
Khủng hoảng địa ốc
Khủng hoảng thanh khoản và hệ thống ngân hàng
Khủng hoảng giá dầu và các loại nguyên liệu thô
Suy thoái kinh tế
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục Chương 1

TS. PHẠM VĂN HÀ
Tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam 2008
Dẫn nhập
Diễn biến kinh tế vĩ mô
Thị trường tài chính
Chính sách kinh tế vĩ mô
Một số thách thức kinh tế vĩ mô năm 2009
Tài liệu tham khảo

TS. PHẠM THẾ ANH
Quản lý tổng cầu trong môi trường bất ổn vĩ mô
Dẫn nhập
Diễn biến lạm phát năm 2008
Đánh giá chính sách tiền tệ
Ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu
Kết luận
Tài liệu tham khảo

TS. TỪ THÚY ANH
Chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh suy thoái toàn cầu
Dẫn nhập
Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2008
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu: thương mại nội ngành hay liên ngành
Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu
Chính sách thương mại
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Phụ lục Chương 4

TS. NGUYỄN ĐỨC THÀNH
Biến động của thị trường chứng khoán dưới góc nhìn kinh tế vĩ mô
Dẫn nhập
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008
Những nền tảng được xây dựng trong giai đoạn 2006-2008
Ảnh hưởng của kỳ vọng tới trạng thái thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục Chương 5

TS. TÔ TRUNG THÀNH
Năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế thế giới

Dẫn nhập
Chặng đua không cân sức – Việt Nam tụt hậu quá xa và dễ bị tổn thương
Chưa có một chiến lược xây dựng năng lực cạnh tranh hiệu quả, rõ ràng và nhất quán
Kết luận
Tài liệu tham khảo

THS. JAGO PENROSE
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Tăng cường thu hút hay tăng cường quản lý?
Dẫn nhập
Những đóng góp của FDI
Những hạn chế của FDI
Kết luận
Tài liệu tham khảo

TS. NGUYỄN ĐỨC THÀNH
Viễn cảnh kinh tế năm 2009 và hàm ý chính sách
Viễn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2009
Khuyến nghị chính sách
Tài liệu tham khảo

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
Phụ lục Báo cáo
Phụ lục 1: Phụ lục Thống kê
Phụ lục 2: Những chính sách vĩ mô nhằm bình ổn nền kinh tế trong năm 2008 và đầu 2009
Tài liệu tham khảo


=> Sách hay, đạt được những mục tiêu ban đầu của nhóm tác giả nêu ra. Cấu trúc khác lạ gồm nhiều chương độc lập của từng tác giả nghiên cứu. Nội dung cung cấp thông tin và thảo luận tình hinh kinh tế Việt nam và thế giới năm 2008 với những phân tính và đánh giá cụ thể, dễ hiểu.
Tuy nhiên, sách có sai sót về xử lý số liệu:
- Bảng 8.3, trang 270: có sai sót về đơn vị của bảng tính hoặc sai trong việc sử dụng dấu chấm (.) và dấu phẩy (,) khi phân định phần thập phân, phần nghìn. Điển hình: nếu hàng "Sai số và sai sót" là -100 tỷ USD là đúng và theo cách sử dụng dâu chấm (.) xuyên suốt trong bảng tính để phân định phần nghìn thì thâm hụt cán cân thanh toán trong cột cuối cùng sẽ là 2442 tỷ USD. Nhưng trong phần nhận xét của trang sau thì tác giả thể hiện ý định thâm hụt cán cân thanh toán trong kịch bản (cột cuối cùng) chỉ là 2,45 tỷ USD (gần hai tỷ rưỡi). Như vậy, nếu bảng tính đúng thì đơn vị bảng tính phải là triệu USD (thay vì tỷ USD). Ngoài ra, cũng trong bảng tính này, số liệu cán cân thương mại 2008 ước tính thì lại lẫn lộn giữa dấu chấm và dấu phẩy, sai sót này có thể do đánh máy.

Monday, November 2, 2009

Cẩm nang ngân hàng đầu tư - Mạc Quang Huy



Năm xuất bản:2009
Đơn vị xuất bản:Thống kê
Giá sách:250.000 VND
Số trang:725

Sau 9 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ngày càng thể hiện vai trò là một kênh huy động vốn dài hạn không thể thiếu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt, từ năm 2006 đến nay, thị truờng chứng khoán đã có tốc độ tăng truởng rất mạnh, thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư tham gia và tạo thành một hiện tượng kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới. Thực tế cho thấy, trong hoạt động của thị trường vốn ở các nước phát triển thì ngân hàng đầu tư là một trong những chủ thể quan trọng nhất.

Tại Việt Nam, tuy ngân hàng đầu tư còn là một khái niệm mới mẻ, song đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các hoạt động phôi thai theo hướng các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng ngân hàng đầu tư. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một định hướng đúng của nền kinh tế.

Để giúp đông đảo bạn đọc tìm hiểu về ngân hàng đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê cho ra mắt bạn đọc cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” của tác giả Mạc Quang Huy, một chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đã nhiều năm công tác tại các ngân hàng đầu tư quốc tế lớn trên thế giới.

Với 22 chương, nội dung cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” không chỉ trình bày bản chất của ngân hàng đầu tư; cách thức tổ chức hoạt động; các nhóm sản phẩm và nghiệp vụ chính của ngân hàng đầu tư; cách thức quản lý hoạt động và rủi ro, mà còn đề cập đến một số khía cạnh quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính đương đại và ảnh hưởng của nó tới hiện tại cũng như tương lai phát triển của ngành ngân hàng đầu tư. Cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” dành một chương nghiên cứu về thực trạng thị trường vốn và tiềm năng phát triển ngành ngân hàng đầu tư tại Việt Nam. Cuốn cẩm nang này không trình bày quá sâu về từng loại nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng đầu tư.

Do nghiệp vụ ngân hàng đầu tư còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nên khi biên soạn cuốn cẩm nang này, bằng kiến thức và kinh nghiệm vốn có của người trong cuộc, trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu tin cậy, kết hợp với diễn biến thực tế của thị trường vốn Việt Nam, tác giả đã cố gắng trình bày cuốn cẩm nang theo một cách viết khoa học, đơn giản và dễ hiểu. Các thuật ngữ chuyên ngành cũng đã được Tác giả Việt hóa theo hướng giải thích bản chất hơn là sáng tác ra những thuật ngữ khó hiểu. Khi cần thiết sử dụng các khái niệm hay thuật ngữ mới, Tác giả cũng tham chiếu thuật ngữ tiếng Anh để bạn đọc tham khảo và tránh hiểu nhầm trong trường hợp nghĩa tiếng Việt chưa được rõ. Trong quá trình nghiên cứu, có thể bạn đọc sẽ gặp một số thuật ngữ mới chưa được giải thích ngay. Xin hãy kiên nhẫn vì các khái niệm đó sẽ được giải thích trong các phần sau của cuốn cẩm nang.

Cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” là tài liệu tham khảo hữu ích cho các đồng nghiệp, các nhà quản lý, các cán bộ, giảng viên và sinh viên chuyên ngành tài chính, ngân hàng (đặc biệt là khối đại học và nghiên cứu sau đại học), các giám đốc tài chính của các doanh nghiệp, các nhà báo chuyên mục kinh tế,…

“Cẩm nang ngân hàng đầu tư” xuất bản lần đầu ở Việt Nam khó tránh khỏi thiếu sót. Mong bạn đọc góp ý kiến, phê bình.



MỤC LỤC

PHẦN 1 - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ

Chương 1: Tổng quan ngân hàng đầu tư

1.1- Khái niệm ngân hàng đầu tư

1.2- Các nghiệp vụ chính

1.3- Các dòng sản phẩm đầu tư

1.4- Các tên tuổi lớn trong ngành ngân hàng đầu tư

1.5- Quy mô hoạt động toàn cầu

1.6- Xu hướng phát triển của ngành

1.7- Tác động của khủng hoảng tài chính tới ngành ngân hàng đầu tư

1.8- Tiềm năng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam

1.9- Hãy cùng nhau cập nhật!

Chương 2: Ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

2.1- Ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

2.2- Sự ra đời của ngân hàng tổng hợp

2.3- Các mô hình ngân hàng đầu tư

Chương 3: Tổ chức hoạt động ngân hàng đầu tư

3.1- Mô hình tổ chức của ngân hàng đầu tư

3.2- Cơ cấu tổ chức bộ phận kinh doanh

3.3- Cơ cấu tổ chức bộ phận quản trị rủi ro

3.4- Cơ cấu tổ chức bộ phận điều hành

3.5- Sự tương tác và tính độc lập giữa các khối kinh doanh

3.6- Tham khảo mô hình tổ chức của Morgan Stanley

3.7- Mô hình quản trị và điều hành của ngân hàng đầu tư

3.8- Môi trường hoạt động của ngân hàng đầu tư

Chương 4: Sản phẩm có thu nhập cố định

4.1- Giới thiệu chung

4.2- Chứng khoán nợ do chính phủ phát hành

4.3- Trái phiếu do các cơ quan chính phủ phát hành

4.4- Chứng khoán nợ chính quyền địa phương

4.5- Chứng khoán nợ doanh nghiệp

Chương 5: Đầu tư sản phẩm có thu nhập cố định

5.1- Rủi ro đầu tư chứng khoán nợ

5.2- Định mức tín nhiệm chứng khoán nợ

5.3- Một số khái niệm cơ bản trong phân tích chứng khoán nợ

5.4- Nghiệp vụ repo trái phiếu

5.5- Một số chiến thuật đầu tư chứng khoán nợ

Chương 6: Sản phẩm và đầu tư chứng khoán vốn

6.1- Khái niệm nghiệp vụ chứng khoán vốn

6.2- Cổ phiếu

6.3- Trái phiếu chuyển đổi

6.4- Quyền chọn mua, bán cổ phiếu

6.5- Chứng quyền cổ phiếu

6.6- Nghiệp vụ tài trợ cổ phiếu

6.7- Chiến thuật đầu tư cổ phiếu

6.8- Phân tích cơ bản trong đầu tư cổ phiếu

6.9- Phân tích kỹ thuật trong đầu tư cổ phiếu

Chương 7: Phát hành chứng khoán vốn và chứng khoán nợ

7.1- Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư

7.2- Phát hành chứng khoán vốn

7.3- Bảo lãnh phát hành chứng khoán nợ

Chương 8: Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.1- Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.2- Quy trình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.3- Soát xét đặc biệt

8.4- Phí tư vấn mua bán, sáp nhập

8.5- Các chiến thuật chống thôn tính thù nghịch

8.6- Tài trợ vốn cho các giao dịch mua bán, sáp nhập

8.7- Mua bán, sáp nhập các công ty đại chúng

8.8- Kế toán đối với hoạt động mua bán, sáp nhập

8.9- Định giá doanh nghiệp

Chương 9: Nghiệp vụ nghiên cứu

9.1- Giới thiệu chung

9.2- Các sản phẩm nghiên cứu

9.3- Thực tiễn hoạt động nghiên cứu

9.4- Phân phối sản phẩm nghiên cứu

9.5- Bảo mật thông tin

9.6- Mâu thuẫn lợi ích đối với hoạt động nghiên cứu

Chương 10: Nghiệp vụ quản lý đầu tư

10.1- Giới thiệu chung

10.2- Quỹ đầu tư

10.3- Quỹ tương hỗ

10.4- Quỹ niêm yết

10.5- Quỹ tín thác đầu tư bất động sản

10.6- Cơ chế tài chính của quỹ đầu tư

10.7- Quản lý gia sản

Chương 11: Nghiệp vụ ngân hàng bán buôn

11.1- Giới thiệu chung

11.2- Đầu tư vốn tư nhân

11.3- Đầu tư vốn mạo hiểm

11.4- Mua doanh nghiệp bằng vốn vay (LBO)

11.5- Cho vay đồng tài trợ và tài trợ dự án

11.6- Đầu tư bất động sản

Chương 12: Nghiệp vụ nhà môi giới chính

12.1- Giới thiệu chung

12.2- Quỹ đầu cơ (hedge fund)

12.3- Quy trình hoạt động của quỹ đầu cơ

12.4- Dịch vụ nhà môi giới chính

12.5- Quy trình ký quỹ áp dụng với quỹ đầu cơ

Chương 13: Nghiệp vụ chứng khoán hóa

13.1- Khái niệm

13.2- Quy mô chứng khoán hóa

13.3- Quy trình chứng khoán hóa

13.4- Lợi ích và chi phí

13.5- Các loại sản phẩm chứng khoán hóa

13.6- Trái phiếu có danh mục cho vay thế chấp mua nhà làm tài sản đảm bảo (MBS)

13.7- Trái phiếu có các danh mục rủi ro tín dụng làm tài sản đảm bảo (CDO)

13.8- Chứng khoán hóa tín dụng dưới chuẩn

Chương 14: Sản phẩm phái sinh (I)

14.1- Giới thiệu chung

14.2- Các nhóm hợp đồng phái sinh

14.3- Hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ

14.4- Hợp đồng kỳ hạn lãi suất

14.5- Hợp đồng hoán đổi hối đoái

14.6- Hợp đồng hoán đổi tiền tệ

14.7- Hợp đồng hoán đổi lãi suất (IRS)

14.8- Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu

Chương 15: Sản phẩm phái sinh (II)

15.1- Hợp đồng tương lai

15.2- Hợp đồng quyền chọn

15.3- Phái sinh hàng hóa

15.4- Phái sinh rủi ro tín dụng

15.5- Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng

15.6- Hợp đồng hoán đổi toàn bộ lợi ích (TRS)

15.7- Phái sinh thời tiết

Chương 16: Sáng tạo tài chính

16.1- Sáng tạo tài chính

16.2- Trái phiếu cơ cấu

16.3- Trái phiếu liên kết rủi ro lãi suất

16.4- Trái phiếu bảo vệ rủi ro lạm phát

16.5- Trái phiếu liên kết rủi ro ngoại hối

16.6- Trái phiếu liên kết rủi ro cổ phiếu

16.7- Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng

16.8- Trái phiếu lợi suất cao

Chương 17: Quản lý hoạt động và rủi ro trong ngân hàng đầu tư

17.1- Khung quản lý tài chính của ngân hàng đầu tư

17.2- Hệ thống chỉ số đánh giá hoạt động cơ bản

17.3- Quản lý kết quả kinh doanh

17.4- Khung quản lý nguồn vốn

17.5- Quản trị rủi ro

Chương 18: Khung pháp lý và đạo đức nghề nghiệp

18.1- Giới thiệu chung

18.2- Các quy định về phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp

18.3- Các quy định về trao đổi chứng khoán trên thị trường thứ cấp

18.4- Các quy định về công ty đầu tư và nhà tư vấn đầu tư

18.5- Đạo luật Sarbanes-Oxley 2002

18.6- Đạo đức nghề nghiệp

Chương 19: Cơ hội nghề nghiệp tại ngân hàng đầu tư

19.1- Giới thiệu chung

19.2- Tiêu chuẩn tuyển dụng

19.3- Cơ hội nghề nghiệp tại khối ngân hàng đầu tư (IBD)

19.4- Cơ hội nghề nghiệp tại khối đầu tư

19.5- Cơ hội nghề nghiệp tại khối quản lý đầu tư

19.6- Cơ hội nghề nghiệp tại khối nghiên cứu

19.7- Cơ hội nghề nghiệp tại bộ phận điều hành

19.8- Các bằng cấp chuyên môn

19.9- Thu nhập tại ngân hàng đầu tư

Chương 20: Xu hướng phát triển ngành ngân hàng đầu tư

20.1- Tự do hóa tài chính

20.2- Quá trình toàn cầu hóa

20.3- Các sản phẩm mới

20.4- Phát triển công nghệ thông tin

20.5- Các quy định pháp lý mới

20.6- Ngân hàng đầu tư và cuộc khủng hoảng tài chính

20.7- Tương lai ngành ngân hàng đầu tư toàn cầu

PHẦN 2 - THAM KHẢO

Chương 21: Tiềm năng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam

21.1- Thị trường vốn Việt Nam

21.2- Dòng sản phẩm có thu nhập cố định

21.3- Dòng sản phẩm chứng khoán vốn

21.4- Dòng sản phẩm phái sinh và sản phẩm cơ cấu

21.5- Dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư

21.6- Quản lý đầu tư

21.7- Nghiệp vụ nghiên cứu

21.8- Các ngân hàng đầu tư quốc tế tại Việt Nam

Chương 22: Niêm yết tại thị trường quốc tế

22.1- Giới thiệu chung

22.2- Cách thức niêm yết tại SGDCK quốc tế

22.3- Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (LSE)

22.4- Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE)

22.5- Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SGX)

PHẦN 3 - PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Danh sách tài liệu tham khảo

Phụ lục 2: Danh sách các thuật ngữ viết tắt

Phụ lục 3: Danh sách một số thuật ngữ ngân hàng đầu tư (Anh - Việt)

Phụ lục 4: Danh sách một số báo chí cập nhật ngân hàng đầu tư

Phụ lục 5: Danh sách các DNNN lớn của Việt Nam thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2007-2010


Nhận xét của VNEconomy:

Ngân hàng đầu tư là một định chế tài chính quan trọng của thị trường vốn tại các quốc gia phát triển. Nghiệp vụ truyền thống và cơ bản nhất của ngân hàng đầu tư là thực hiện vai trò kết nối các chủ thể thiếu vốn và các chủ thể thừa vốn trên thị trường vốn thông qua việc tư vấn, bảo lãnh phát hành các loại chứng khoán (bao gồm chứng khoán vốn và chứng khoán nợ).

Ngày nay, ngân hàng đầu tư tham gia vào nhiều loại hình nghiệp vụ đa dạng khác nhau trên thị trường vốn, bao gồm dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư, môi giới, đầu tư, nghiên cứu, quản lý tài sản, ngân hàng bán buôn và các dịch vụ khác. Dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư bao gồm tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán cũng như tư vấn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A).

Tại Việt Nam, tuy ngân hàng đầu tư còn là một khái niệm mới mẻ, song đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các hoạt động phôi thai theo hướng các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng ngân hàng đầu tư. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một định hướng đúng của nền kinh tế.

Mặc dù vậy, các tài liệu và thông tin xuất bản nhằm giới thiệu, phân tích đầy đủ và khoa học về các nghiệp vụ, các dòng sản phẩm, mô hình quản lý và hoạt động cũng như kinh nghiệm trên thế giới trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư hiện còn khá hạn chế tại Việt Nam.

Để đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc tìm hiểu về lĩnh vực này, Nhà xuất bản Thống kê vừa ra mắt bạn đọc cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” của tác giả Mạc Quang Huy, một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đã nhiều năm công tác tại các ngân hàng đầu tư quốc tế lớn trên thế giới, là cộng tác viên quen thuộc với nhiều bài viết sâu sắc trên VnEconomy.

Cuốn sách 725 trang, được chia thành 22 chương, trình bày tương đối toàn diện mỗi lĩnh vực sản phẩm, nghiệp vụ và quản lý của ngân hàng đầu tư. Tác giả cũng đề cập đến một số khía cạnh quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính đương đại và ảnh hưởng của nó tới hiện tại cũng như tương lai phát triển của ngành ngân hàng đầu tư.

Các câu hỏi như nguyên nhân, gốc rễ và cách thức hình thành của một cuộc khủng hoảng tài chính là gì, vì sao các ngân hàng đầu tư thất bại nặng nề trong cuộc khủng hoảng tài chính, vì sao các ngân hàng đầu tư độc lập còn lại trên Phố Wall là Goldman Sachs va Morgan Stanley phải xin chuyển sàng mô hình ngân hàng đầu tư tổng hợp (universal bank) ngay sau khi Lehman Brothers sụp đổ (9/2008), xu hướng của ngành ngân hàng đầu tư trong tương lai như thế nào… được lần lượt trả lời trong cuốn sách này.

Bên cạnh đó, tác giả cũng dành một chương nghiên cứu về thực trạng thị trường vốn và tiềm năng phát triển ngành ngân hàng đầu tư tại Việt Nam...

Theo đánh giá của giới chuyên môn tại Việt Nam, đây là một tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cán bộ quản lý và nhân viên chuyên nghiệp trong ngành tài chính Việt Nam, bao gồm các cơ quan chức năng, sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, các nhà đầu tư có tổ chức, các giám đốc tài chính doanh nghiệp muốn tìm hiểu về hoạt động và dịch vụ ngân hàng đầu tư quốc tế.

Cuốn sách cũng được viết như một cuốn sách giáo khoa cho các giảng viên, sinh viên khối kinh tế, tài chính, ngân hàng (khối đại học và sau đại học) bao gồm các trung tâm đào tạo chứng khoán trong nước, muốn tiếp cận các nghiệp vụ tài chính hiện đại. Các phóng viên, biên tập viên, nhà báo chuyên ngành tài chính và chứng khoán cũng sẽ tìm thấy những thông tin bổ ích từ cuốn sách này.

*Minh Đức

=> Đây là lần đầu tớ đánh giá về một cuốn sách có thể được liệt kê vào thể loại sách "chuyên ngành" hay "nghiệp vụ", vì vốn dĩ rất ngại nêu nhận xét các thể loại này, dễ gây nhiều phản ứng do kiến thức của bản thân không sâu rộng và không thể so sánh với các tác giả của thể loại này nên việc đánh giá hay nhận xét là vấn đề tớ không thích. Có điều, do cuốn này được tung hô trước khi phát hành nhiều quá nên sau khi đọc xong quyết định viết về nó.

Cuốn sách này được đầu tư một cách khá kỹ lưỡng. Trước hết là khâu giới thiệu, rất nhiều website tài chính và bài viết đề cập, đề cao, khen ngợi cuốn sách này. Rồi đến việc phát hành thì cũng chỉ chọn 2 nhà sách được phép bán. Rồi ngày phát hành được ấn định nhưng đến đó, tớ không thấy fahasa SG bày bán, phải hơn 2 tháng sau thì sách mới có trên kệ, chẳng hiểu nguyên nhân vì sao...vào lúc đó, các quầy sách hay bán chiết khấu cũng chưa thấy xuất hiện... Mãi đến cách đây 2 tháng (tháng 9/2009) thì mới được bán rộng rãi ở nhiều nhà sách..Phải có lời khen ngợi cho đội sale của sách này. Sách được trình bày bìa và giấy khá đẹp và độ dày bằng cuốn từ điển (nội dung cũng gần như từ điển).

Về mặt nội dung thì cuốn sách đáp ứng được mục đích ban đầu theo ý tác giả (tớ nghĩ vậy!) đó là trình bày bản chất của ngân hàng đầu tư, cách thức tổ chức hoạt động, các nhóm sản phẩm và nghiệp vụ chính của ngân hàng đầu tư, cách thức quản lý haọt động và rủi ro và cuối cùng là đáp ứng được mục đích: không trình bày quá sâu về từng loại nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng đầu tư. Chính vì các tiêu chí đề ra như vậy, khi đọc cuốn sách này, những người đã từng đọc, học, nghiên cứu về các nghiệp vụ nêu trong sách bằng tiếng anh thì cuốn sách như một bản dịch tốt để hệ thống lại các khái niệm, kiến thức tổng quát của các nghiệp vụ; còn đối với những người mới tiếp cận phân tích tài chính thì sách này giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quát các nghiệp vụ và hiểu hơn về khái niệm. Tôi thấy về mặt nghiệp vụ thì đa phần sách được trình bày khá sát theo hệ thống của chương trình CFA về mặt khái niệm các nghiệp vụ (chưa đọc 2 cuốn "The business of Investment Banking" và "Vault Career Guide to investment banking" nên không rõ nội dung của sách này có theo 2 cuốn vừa nói không nữa!). Và một cái hay của sách này nữa là thường có những liên hệ đến tình hình của nghiệp vụ đó ở Việt Nam khiến cho người đọc trong nước có cảm giác gần gũi chứ không đơn thuần chỉ tập hợp và dịch từ các sách nước ngoài.

Tuy nhiên, tớ chỉ có nhận xét là khi sách đề cập về chương trình CFA thì chỉ ghi là “theo CFA” hoặc là “của CFA” nhưng thiết nghĩ nếu đúng thì phải là “theo Hiệp hội CFA” hoặc “theo/của chương trình CFA” (standard VII B of Professional conduct). Có thể tác giả không là hội viên nên việc đề cập như vậy không là vấn đề.

Dưới đây là một số tài liệu tham khảo trích theo mục lục của tác giá:
1. K. Thomas Lia. The business of Investment Banking, 2005. John Wiley & Son, Inc
2. Vault Career Guide to investment banking, 2005 (download)
3. Harold Bierman JR. Private Equity, 2003. John Wiley & Son, Inc (download)
4. Philippe Jorion. Financial Risk Manager Handbook. John Wiley & Son, Inc (download)
11. Mergers and Acquisitions, 2005. Hiệp hội ngân hàng anh quốc
12. Wealth Management in Switzerland, 2007. Hiệp hội ngân hàng thụy sỹ
16. Vietnam capital market roadmap, 2003. ADB
17. Asia pacific M&A Bulletin (2007, 2008). PWC Việt Nam (download)

Thursday, October 29, 2009

Đại khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - Dưới con mắt của các nhà báo và các chuyên gia kinh tế quốc tế



Nguyễn Văn Nhã tổng hợp và biên dịch
Nxb Tri thức
----------

Nội dung sách hầu hết là các bài báo, nhận xé, bài viết của một số chuyên gia knh tế, đa phần là được tập hợp từ Globe and Mail và La Presse, rất ít thấy nguồn dữ liệu khác.
Các bài báo được sắp xếp theo từng chủ đề, theo chuỗi thời gian để tiện việc theo dõi. Tuy nhiên, hầu hết là các bài viết ngắn nên không có sự phân tích sâu, những gì đọng lại sau khi đọc xong từng bài, thậm chí là cả cuốn là rất ít.
Tất nhiên, vẫn có những bài hay, cung cấp thông tin hữu ích như bài "Chi tiêu Nhà nước không dễ dàng" (trang 308).
Vẫn còn một số lỗi ghi chú của tiếng anh chưa đúng hoặc dịch thuật ngữ không dùng từ kinh tế thông dụng. Ví dụ: từ "thanh khoản" không thể đơn giản là "tài khoản thanh toán" (trang 20).
Tóm lại, mức độ thoả mãn khi đọc xong không cao, thậm chí thấp hơn kỳ vọng

Sunday, October 4, 2009

Tư Duy Kinh Tế Việt Nam 1975 - 1989 (Nhật Ký Thời Bao Cấp)

Tư Duy Kinh Tế Việt Nam 1975 - 1989 (Nhật Ký Thời Bao Cấp)
Tác giả: Đặng Phong.
Nhà xuất bản: Nxb Tri Thức

Ngày xuất bản: 08 - 2008


Tái bản có bổ sung (quý II 2009)



Theo Tuần Việt Nam

Bâng khuâng cùng "Nhật ký thời bao cấp"
(Thứ sáu, 28/11/2008 08:40:46 AM)

Khác với chiến tranh, thời bao cấp chỉ mới kết thúc cách đây chưa đầy hai thập niên, và hàng triệu nhân chứng của nó hiện giờ vẫn còn sống. Vẫn sống và vẫn nhớ như in những gì gắn với nó: con người, sự kiện, thói quen, hành vi, lời ăn tiếng nói; vô số chuyện cười, ca dao, tục ngữ, phim ảnh, bao nhiêu bi kịch, nước mắt, nụ cười… Tất cả đã tạo nên cả một nền văn hóa và là nguồn cảm hứng lớn cho nghệ thuật.

Đã có những bộ phim nổi tiếng: Chuyến xe bão táp, Hà Nội mùa chim làm tổ. Có những vở kịch của Lưu Quang Vũ: Tôi và chúng ta, Tin ở hoa hồng.

Có những bài ca mà giờ đây nghe hát lên, ai đã từng sống qua thời kỳ cả nước xếp hàng cũng thấy rạo rực "tinh thần bao cấp": Mùa xuân từ những giếng dầu, Bến cảng quê hương tôi…

Nhưng đó là những tác phẩm ra đời trong thời bao cấp. Còn các tác phẩm của "người bây giờ" viết về những năm tháng ấy thì nhìn chung chưa đủ sức phản ánh được một cách đầy đủ và chân thực cả một giai đoạn trong lịch sử đất nước. Ít nhất cũng chưa có cuốn sách nào đủ để làm người đọc phải bồi hồi cảm xúc khi đọc và nhớ lại một thời đã qua.

Xét ở khía cạnh đó, Tư duy kinh tế Việt Nam: Chặng đường gian nan và ngoạn mục 1975 - 1989 của Giáo sư Đặng Phong là một cuốn sách hay. Vì đó là cuốn sách phản ánh thời bao cấp một cách đầy đủ nhất từ trước đến nay, trên phương diện kinh tế.

Khách quan và khoa học

Cuốn “nhật ký” của Giáo sư lịch sử kinh tế Đặng Phong chia thời bao cấp thành ba giai đoạn: 1975 - 1979, 1979 - 1986, và 1986 - 1989, và bám sát theo từng chuyển biến, thay đổi của nền kinh tế trong ba giai đoạn đó.

Viết một cuốn sách lịch sử phải đảm bảo các tiêu chí chính xác, khách quan, khoa học. Tư duy kinh tế Việt Nam đã hướng tới đáp ứng những đòi hỏi đó, ở chỗ nó cung cấp rất nhiều thông tin và kiến thức lịch sử kinh tế.

Với nhiều bạn đọc, có thể nhờ cuốn sách này, lần đầu tiên bạn sẽ được biết về những giai đoạn cũng khá dầu sôi lửa bỏng đối với đất nước, như những năm ngay sau ngày thống nhất 30/4.

Đó là giai đoạn mà chúng ta "say sưa với thắng lợi", muốn "nhanh chóng thực hiện nền sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa", nên đã tiến hành cả ba cuộc cách mạng: khoa học kỹ thuật, văn hóa tư tưởng, quan hệ sản xuất.

Những cơ sở kinh tế ở miền Nam cũ bị xóa bỏ, tịch thu, quốc hữu hóa, người dân bị đưa đi vùng kinh tế mới để học tập thông qua lao động. Điều đó, như tác giả viết, đã đẩy hai triệu người vào con đường bất đắc dĩ: vượt biên!

Đó cũng là giai đoạn mà chúng ta tiếp quản cả một đất nước - một nền kinh tế, trong tình trạng thiếu kiến thức về quản lý và tư duy kinh tế thì còn khá ấu trĩ. Chính điều đó đã dẫn tới cuộc khủng hoảng kinh tế nặng nề về sau này, được tác giả phản ánh rất đầy đủ:

"Nông dân vẫn là tầng lớp khó khăn nhất. Năm 1977, trong dịp Tổng Bí thư đi thăm tỉnh Hà Nam Ninh, có hứa rằng chỉ vài năm nữa thì mọi nhà nông dân đều có TV, tủ lạnh…, thì bây giờ miếng cơm ăn cũng không có đủ, nhiều vùng đói to".

Bạn đọc cũng sẽ được chứng kiến, qua lời kể của hàng chục nhân chứng, những bi kịch thật sự của người dân. Ông Tư Tâm, Bí thư Tỉnh ủy Long An, kể lại về phong trào đưa dân đi vùng kinh tế mới: "Mỗi người được cấp một lô đất. Nhưng nhìn ra chỉ thấy cỏ mọc dày đặc. Máy ủi, máy cày không có. Phải cuốc bằng tay, chặt bằng dao. Làm sao họ sản xuất được? Có một ông người Hoa nhìn tôi rưng rức nước mắt và kêu trời: Tôi là giống người, tôi không phải giống trâu bò, tôi không ăn cỏ được!…"

Để đảm bảo tính khách quan và chính xác của thông tin, tác giả đã gặp và phỏng vấn hàng chục nhân vật như ông Tư Tâm, trong đó đặc biệt là những người đã từng làm việc gần gũi các cán bộ lãnh đạo - như ông Trần Việt Phương, nguyên trợ lý của cố Tổng Bí thư Lê Duẩn; hoặc những gương mặt đóng vai trò quan trọng trong “cuộc chiến” đổi mới mà nổi lên là Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Văn Kiệt. (Cuốn sách này cũng được tác giả trân trọng đề tặng: Để tưởng nhớ cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt).

Dễ dàng nhận thấy mọi chuyển biến của nền kinh tế đất nước đều gắn chặt với những quyết định của các nhà lãnh đạo, được thể hiện ra thành những chủ trương chính sách của chính phủ. Bởi thế, nói là lịch sử thời bao cấp, nhưng cuốn sách thực chất ghi lại lịch sử chuyển biến tư duy kinh tế của những người điều hành đất nước.

Nhờ cuốn sách này, bạn đọc sẽ được biết cả thời kỳ "đấu tranh" giữa hai đường lối tư duy: bảo thủ và đổi mới. Bạn sẽ thấy rằng sự ra đời của cái mới cần sự quyết tâm, lòng can đảm và thậm chí, cả một chút may mắn đến từ thời cuộc. Tóm lại, cái mới cũng đòi hỏi sự trả giá.

Những trang viết lịch sử kinh tế đầy cảm xúc

Viết về lịch sử, mà lại là lịch sử kinh tế, tác giả rất dễ sa vào khuynh hướng kể lể, tầm chương trích cú, trình bày bảng biểu số liệu, hồ sơ cả tập, vừa khô cứng vừa… dễ thành nhàm chán.

Nhưng với Tư duy kinh tế Việt Nam thì khác. Giáo sư Đặng Phong, ngoài việc đưa vào những phát biểu, hồi tưởng chân thật của các nhân vật lịch sử, còn trích cả nhiều bài báo, tranh châm biếm cùng thời kỳ đó (từng đăng trên những báo Văn Nghệ, Lao Động, Đại Đoàn Kết v.v.).

Điều đó đã làm nên sự nhẹ nhàng cho cuốn sách, cũng là phong cách riêng trong cách viết sử của Đặng Phong.

Là một cuốn sách khoa học xã hội, nhưng - với văn phong của tác giả - Tư duy kinh tế Việt Nam cũng chứa đựng nhiều cảm xúc. Như là thái độ điềm tĩnh và xây dựng của Giáo sư Đặng Phong khi nói về những sai lầm mà giới lãnh đạo - do bị những giáo điều ngăn chặn tầm nhìn - đã mắc phải khi chuyển từ quản lý đất nước thời chiến sang quản lý kinh tế trong thời bình.

Như là sự cổ vũ cho những quyết tâm đổi mới, dựa trên kiến thức và tư duy khoa học; sự cổ vũ cho tinh thần ham học hỏi, dám nghĩ dám làm dám chịu trách nhiệm. Và, nổi lên trên tất cả, chúng ta có thể cảm nhận tình yêu nước của chính tác giả.

Nhưng quan trọng hơn, cuốn sách mang lại cảm xúc cho độc giả. Người đọc như cảm thấy bầu không khí ngột ngạt của "đêm trước đổi mới", như sống lại những năm tháng đen tối của khủng hoảng kinh tế, như được chứng kiến sự gay go và phức tạp của cuộc đấu tranh giữa hai đường lối cho đến khi cả nước thống nhất một tư tưởng: Đổi mới hay là chết?

Dĩ nhiên, cuốn sách không xao nhãng mục đích cao nhất là cung cấp kiến thức, nên có đầy đủ cả biên niên sử các sự kiện kinh tế cùng rất nhiều số liệu thống kê để thỏa mãn nhu cầu tra cứu của độc giả.

Nếu ở tác phẩm đồ sộ và công phu này có gì gọi là nhược điểm, thì đó là một cảm giác mơ hồ mà nó tạo ra cho người đọc: Dường như tác giả vẫn còn có những điều chưa nói hết, những chỗ phải bỏ qua hoặc tìm một cách nói giảm, nói tránh sự thật. Có thể đó cũng chỉ là một cảm giác mà chính cách viết nhẹ nhàng và điềm tĩnh của Giáo sư Đặng Phong đã mang tới.

Nhưng cho dù có thế, những gì cuốn sách mang lại vẫn là quá nhiều, quá đầy đủ so với tất cả những tài liệu về lịch sử kinh tế mà người đọc chúng ta từng tiếp cận kể từ năm 1975 đến nay.

Đoan Trang

Theo Báo Thể Thao & Văn Hoá
Con đường vòng vật vã
(Thứ tư, 22/10/2008 08:23:56 AM)

Cầm cuốn sách ngót 400 trang của Đặng Phong đã thấy ngại, trong khi xung quanh mình đầy ắp các kênh thông tin khác nhau. Thời gian mà Thượng đế ban tặng cho lại chỉ đúng có 24 giờ mỗi ngày, không hề nhiều hơn người khác.

Rồi tên sách nhấn mạnh vấn đề “tư duy kinh tế”, dường như hơi viển vông và xa xỉ so với thời buổi hàm lượng tính thực dụng ngày càng cao... Tôi định xem lướt, ghi nhớ những gì cơ bản trong nội dung với hy vọng khai thác tư liệu cho các bài viết sau này. Thế nhưng, sự hấp dẫn của cuốn sách đã khiến tôi không thể dứt ra được và đọc luôn một mạch.

Nhân vật ấn tượng nhất: Trường Chinh

Là một nhà báo kinh tế lâu năm, từ năm 1976, được chứng kiến một nền kinh tế hoang tàn sau chiến tranh, chứng kiến cuộc trở dạ vật vã hàng chục năm để ra đời công cuộc đổi mới, trong lòng tôi luôn có một điều trăn trở rằng một thời kỳ lịch sử đặc biệt của dân tộc, với những cung bậc thăng trầm tưởng như vượt quá sức chịu đựng của con người, liệu có được ai đó làm “Quan ngự sử” để ghi lại làm bài học cho con cháu mai sau?

Thật quý giá và đáng trân trọng tất cả những tư liệu lịch sử và những đánh giá của tác giả về những sự kiện, những nhân vật trong cuốn sách này. Đã hơn 10 năm sau cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại và thống nhất đất nước, các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam không thể đành tâm nhìn những người dân thiếu ăn, thiếu mặc, thiếu đủ mọi hàng hoá thiết yếu, tư liệu sản xuất… trong một nền kinh tế bao cấp khổng lồ hiếm có trên thế giới. Sai lầm bắt đầu từ đâu? Làm thế nào để sửa được nó? Thế là cuộc vật lộn trong tư duy ngay trong những nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Đảng và Nhà nước đã được tác giả ghi chép một cách khoa học, bình luận trên một nền tư duy của một nhà khoa học. Chỉ qua những dẫn chứng lịch sử kinh tế trong giai đoạn 1975-1989, người đọc có thể thấy được chân dung của nhiều nhà lãnh đạo như Lê Duẩn, Trường Chinh, Nguyễn Văn Linh, Võ Chí Công, Võ Văn Kiệt…, các cán bộ cao cấp tầm cỡ như Trần Phương, Nguyễn Ngọc Trìu, Ngô Duy Đông, Hoàng Hữu Nhân…, rồi các nhà kinh tế chiến lược như Đào Xuân Sâm, Trần Việt Phương, Hà Nghiệp, Lê Văn Viện, Võ Đại Lược… Để thay đổi tư duy kinh tế cho hệ thống chính trị của một đất nước không hề dễ dàng, mà dõi theo nội dung cuốn sách, tôi cảm giác nó ly kỳ và hấp dẫn đến nghẹt thở. Ở những nơi tôn nghiêm vào loại bậc nhất đất nước, chỉ sơ sảy một chút là có thể “thân bại danh liệt”, nhưng cuộc đấu tranh giữa tư duy cũ và mới vẫn xảy ra quyết liệt. Gay gắt có, mềm mỏng có, nhân nhượng có, sai lầm có, sửa sai có, đề bạt có, miễn nhiệm có, oan ức có…với những tư liệu thuyết phục.

Đọc xong cuốn sách, nhân vật ấn tượng nhất trong tôi lại là cố Tổng bí thư Trường Chinh. Ông là một trong những người lãnh đạo có trình độ học vấn cao và có phong cách lãnh đạo điềm đạm, chuẩn mực. Phương pháp tư duy và làm việc của ông là một phương pháp có bài bản. “Do đó đã có lúc ông xa rời thực tiễn của cuộc sống, dẫn tới những sai lầm nặng nề như trong cải cách ruộng đất, thời kỳ 1953 - 1956, trong việc phê phán cơ chế khoán ở Vĩnh Phúc năm 1968”. Đọc đến đây, tôi ngỡ tưởng rằng những con người có tư tưởng “tả khuynh” như vậy khó có thể là trung tâm của công cuộc đổi mới sau này. Thế nhưng tôi đã lầm hoàn toàn. Những tư liệu lịch sử trong cuốn sách đã chứng minh rằng Trường Chinh chính là người khởi xướng mãnh liệt nhất, kiên định nhất cho công cuộc đổi mới vĩ đại này. Sự hấp dẫn của cuốn sách một phần quan trọng là ở đây, bởi để một vị lãnh đạo cao nhất đất nước thay đổi tư duy thì phải có biết bao công sức của bộ máy giúp việc và sự trả giá cao của thực tiễn. Ông Mai Chí Thọ, lúc đó là Chủ tịch UBND thành phố Hồ Chí Minh, viết: “Sau đợt đi kiểm tra tình hình thực tế ở một số địa phương và thành phố HCM, đồng chí Trường Chinh đã phát biểu: “Trước đây tôi đã nghe nhiều báo cáo sai lầm, không đúng thực tế”. Anh đã quay “một trăm tám chục độ” và đã tạo nên một bước ngoặt lịch sử cho cách mạng Việt Nam”.

Từ quan niệm ngoại kiều là “đạn bọc đường”…

Một ấn tượng nữa trong tôi là cuốn sách này, qua các tư liệu lịch sử, đã vẽ rất rõ nét một con đường vòng trong quá trình phát triển kinh tế đất nước, tạo ra một sự lãng phí khủng khiếp trong việc khai thác các nguồn lực để phát triển. Trong nông nghiệp, khẩu hiệu “Người cày có ruộng” ban đầu được dẫn theo con đường Tổ đổi công, rồi HTX cấp thấp, HTX cấp cao, rồi khoán 100, rồi khoán 10 để trở lại đúng bản chất kinh tế của việc “Người cày có ruộng” cách đấy mấy chục năm. Về công nghiệp, từ tư bản dân tộc tiến lên công tư hợp doanh, sang công nghiệp quốc doanh rồi quay trở lai cổ phần hoá, cho phép phát triển kinh tế tư bản tư nhân, đầu tư nước ngoài, rồi Đảng viên được làm kinh tế tư nhân. Trong phân phối-lưu thông, từ chỗ Nhà nước nắm từ cây kim, sợi chỉ, lạng đỗ xanh, tấm lá giong giềng, quần áo, gạo, mỳ…cho đến khi không thể kham nổi, phải trao cho thị trường điều tiết. Con đường vòng ấy đã mất vài chục năm vật vã. Từ chỗ quan niệm việc gửi tiền, gửi hàng của bà con Việt kiều cho những người thân thích ở trong nước là những “viên đạn bọc đường”, đến nay, khi được coi đây là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng trong quá trình phát triển cũng tiêu tốn mất ngót nửa thế kỷ…Cái đáng quý của cuốn sách là ở chỗ do vẽ được con đường vòng mà nền kinh tế đất nước trải qua, đã chỉ ra con đường ngắn nhất để xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, mà cho đến giờ này, còn nhiều quyết sách kinh tế của đất nước dường như vẫn phải đi vòng.

Sẽ là có lỗi nếu không có đôi lời giới thiệu về tác giả cuốn sách. Ông sinh năm 1939 tại Hà Tây, tốt nghiệp Khoa lịch sử ĐH Hà Nội năm 1960, ĐH kinh tế quốc dân 1964, nguyên Uỷ viên Hội đồng khoa học, trưởng phòng lịch sử kinh tế Viện Kinh tế Việt Nam, PTBT Tạp chí Thị trường - Giá cả… Ông từng tham gia nhiều đề tài khoa học cấp quốc gia về lĩnh vực kinh tế và được nhiều trường đại học và viện nghiên cứu nước ngoài mời thỉnh giảng. Ông tâm sự: “Lịch sử thời kỳ đổi mới không phải là và không thể là chặng đường chỉ toàn những thành tích và thắng lợi. Nó là một chặng đường đầy những thử nghiệm và khai phá gian nan, đầy những khó khăn, vấp váp, trong đó có cả những sai lầm, thất bại, rồi chính từ đó mới bật ra những bước sáng tạo, bứt phá”.

Tôi rất đồng tình với ông. Chính vì thế, bản thân những vật vã trên chặng đường gian nan ấy đã tạo nên sự cuốn hút của cuốn sách này.

Nguyễn Hoàng Linh

Mục lục:

Lời nói đầu

Nhập đề - những think tank xưa và nay

Chương 1: Giai đoạn 1975 – 1979

Tình hình kinh tế cả nước sau 1975

Tư duy kinh tế

Đường lối kinh tế

Chương 2: Giai đoạn 1979 – 1986

Tình hình kinh tế những năm 1979 – 1980

Tư duy kinh tế những năm 1979 – 1980

Bước đột phá đầu tiên về quan điểm kinh tế

Những đột phá ở cơ sở

Những chuyển biến đầu tiên về chính sách

Những khởi sắc trong đời sống kinh tế

Lập lại trật tự - bước lùi về tư duy 1983 – 1984

Những bứt phá về tư duy các năm 1984 – 1985 – vai trò lịch sử của Trường Chinh

Chương 3: Giai đoạn 1986 – 1989

Vòng xoáy 1986

Trường Chinh và việc chuẩn bị báo cáo chính trị cho đại hội Đảng lần thứ VI

Những nội dung chính của báo cáo chính trị

Đại hội Đảng lần thứ VI

Hai năm chuyển mình gian nan: 1987 – 1988

Những chuyển biến quan trọng trong chính sách kinh tế

Bước ngoặt 1989

Kết luận

Biên niên các sự kiện kinh tế

Tài liệu tham khảo

Bảng chỉ mục.


=> Sách được xuất bản bởi quyết định đột ngột để tưởng nhớ nguyên Thủ Tướng Chính Phủ - Võ Văn Kiệt, người được nhắc đến nhiều nhất, có công lao to lớn đối với sự nghiệp đổi mới tư duy kinh tế Việt nam. Tuy nhiên, sau khi đọc xong tác phẩm, tôi vẫn chưa thấy được hình ảnh về những đóng góp của nguyên Thủ Tướng Chính Phủ - Võ Văn Kiệt vẫn chưa được phác hoạ rõ ràng trong cả 3 giai đoạn được trình bày trong sách. Có thể những đóng góp này được tác giả nghiên cứu trong 2 giai đoạn sau trong công trình nghiên cứu của tác giả (giai đoạn 1990-1996 và 1997-2005).
Ngoài ra, đây cũng là cuốn sách việt nam đầu tiên tôi đọc có phần chỉ mục.
Tuy nhiên, tôi vẫn băn khoăn 1 điều, nếu như chưa có "cái tang lớn" và không có ý nghĩ đột xuất ấy thì phải chăng tác phẩm này vẫn chỉ là 1 công trình nghiên cứu để cho những người đa phần đã trải qua thời kỳ này đọc, chứ những người dân bình thường như tôi sẽ không có cơ hội tiếp xúc những nghiên cứu như vậy?

Sunday, September 27, 2009

Ngoài Vùng Lịch Sự


Ngoài Vùng Lịch Sự
Tác giả: Nguyễn Phương Thảo.
Nhà xuất bản: Nxb Văn Nghệ TP.HCM

Giới thiệu về nội dung
“Những điều tôi viết ra trong quyển sách này cũng là những điều mà tất cả các bạn đã từng thấy đâu đó trong cuộc sống của mình; những lần đi siêu thị, đi nhà sách, đi khám bệnh, đi ăn cưới, đi bát phố, đi du lịch… Tôi chỉ dụng công hơn các bạn ở chỗ tôi đã chịu khó tò mò quan sát, tẩn mẩn ghi chép lại và hả hê viết chúng ra như một cách xả stress, xả những bực bội vì những điều chướng mắt, những điều làm phiền hà, thậm chí là hành hạ chúng ta…

Có thể nhiều bạn sẽ nhăn mặt khi đọc những đoạn văn đầy chua cay, đầy mỉa mai khi tôi tập trung lôi một thối xấu nào đó ra, phóng đại nó dưới lăng kính của tôi và rỉa rói nó, từ thói quan liêu hống hách của những cán bộ tiếp dân ở các cơ quan công quyền (“Tiếp dân hay táp dân?!”), cho đến sự ích kỷ nhỏ nhen của những người hàng xóm đang sống cạnh chúng ta (“Những hàng xóm “trời ơi”…”). Thậm chí có bạn sẽ bảo: “Viết gì mà ác thế, chuyện bé xé ra cho to!”. Vâng, quả là những điều tôi kể trong sách đều bé, bé đến mức nhiều người trong chúng ta có thể lắc đầu rồi phẩy tay bỏ qua… Nhưng nếu tất cả chúng ta đề cho qua dễ dàng như thế, những đều be bé ấy sẽ được tiếp thêm dinh dưỡng để mà phình to ra từ từ đấy ạ. Thành ra, do cương quyết không chịu bỏ qua, tôi đã có cuốn sách nhỏ này.

Mong các bạn tiếp nhận cuốn sách của tôi, đọc nó - toàn những điều đã làm tôi và các bạn nhăn nhó - và … cười. Cười vào mỗi thói hư tật xấu, đó là chúng ta đã giương cung và bắn một mũi tên trúng vào nó đấy - Tác giả Nguyễn Phương Thảo.

Mục lục:

Đôi lời cùng bạn đọc

Ê mặt chuyện ngoài đường

Chữa bệnh cho bệnh viện

Những hàng xóm “trời ơi”

Kẹt xe, nghẽn văn hoá

… Ngoài vùng lịch sự

Tiếp dân hay tán dân?!

Chữ ăn cũng có mấy đường

Đừng tra tấn khách hàng bằng … quảng cáo!

Khuyến mãi, khóc ra tiếng gì?

Văn hoá “cơm hàng cháo chợ”!

Một lần chữa cháy

Chuyện một khu phố văn hoá

Văn hoá ATM: cần… bảo trì gấp!

“Trai Việt-index” còn bao nhiêu điểm?

“Gái Việt-index” còn bao nhiêu điểm?

Chung cư văn hoá ăn Tết!

Những căn bệnh của diễn văn

Thượng đế cũng bị… đày

Khi “mẹ ghẻ” phát rồ vì “con chồng”!

Tất cả vì Si-gem!

Những “vấn nạn” của đám cưới!

Du lịch nhưng thất… lịch!

Bờ-lốc “dơ”

Hiệu đính gấp văn hoá nhà sách!

Nỗi buồn buýt buýt

Những đồng nghiệp… mắm tôm!

Học chạy sao bằng học chen

Kinh khiếp… hội chợ!

=> sách đọc cũng vui và cũng "nhột nhột"
* Trích nội dung bài "Hiệu đính gấp văn hoá nhà sách!"
Nhà Sách, một ngôi nhà chứa đựng văn hoá và tri thức nhân loại. Nói theo ngôn ngữ dân gian thì đấy là chốn “hơi bị sang”. Nhưng có đi mới biết, nhiều chuyện chướng tai gai mắt vẫn phơi phóng công khai ở nơi này. Vì nhiều người lui tới nhà sách chả biết có nạp được tí lịch lãm nào không, lại thải ra vô số rác văn hoá làm ô nhiễm bầu không khí nơi đây!

Điều đáng buồn cười là nhiều khi chính những người đang tìm kiếm những kiến thức văn hoá để cho vào đầu thì lại có những hành động vô cùng mất văn hoá. Một anh chàng kính cận đậu mũi, nhìn cũng hình dong chải chuốt áo quần bảnh bao đứng đọc một cuốn “Hạt giống tâm hồn” ở kệ sách “Học làm người”. Đang đọc hứng thú thì vướng phải một trang sách chưa rọc, thế là chàng ta cáu tiết để sách xuống kệ, hành động y như trong phim võ hiệp Hồng Kông, dùng tay thay dao xé “roạc” một phát nghe ê cả răng! Sách thì bị thương còn “hạt giống”nọ gieo nhằm vào đất “tâm hồn” hoá. . . thạch nên cũng toi cơm!

Một số anh chị láu táu nhìn vào thì biết ngay là đương kim xì-tin, vừa đứng lật sách vừa nhóp nhép sing-gum trông rất sành điệu. Nhưng “pờ-rồ” hơn là cái kiểu nghếch mặt sang một bên, mắt vẫn không rời trang sách, chẩu môi phẹt một phát ghim ngay miếng bã sing-gum xuống sàn nhà hoặc góc kệ hàng. Nhiều khách hàng thư sinh khác lại có cái thói lấy sách đọc xong thì không để lại chỗ cũ, vứt nó nằm tênh hênh ngả ngớn, rồi lại lấy cuốn khác đọc, mặc xác cho đứa nào muốn xếp thì xếp! Chỉ cần vài anh đứng ngâm cứu dăm đầu sách là đã tanh bành té bẹ cái kệ sách con nhà người ta! Các cậu gà trống choai kéo băng kéo nhóm vào nhà sách lại có cái khoản táy máy, to mồm. Các cậu thăm thú các nơi rồi tụm lại ở kệ tạp chí thời trang, vừa đọc vừa hô hố bình phẩm những lời nghe rất bẩn tai về vòng 1 cô này, vòng 3 cô kia, chưa kể là ngứa tay vẽ vời nhăng nhít vào sách…

Có em gái nọ, nhân viên nhà sách đã trả lời “Nhật ký công chúa” hết hàng, em vẫn không tin, người ta vừa quay đi thì lập tức em chổng mông cúi xuống các ngăn sách cuối cùng (thường để sách dự trữ) để kiểm tra. Anh giai nào thấy em mặt mày nhăn nhó, mồm lầm bầm chửi rủa cô gái nọ thì cũng nghĩ em nên tìm Nhật ký… phù thuỷ thì thích hợp hơn cả? Sách mà em lấy cả chân để khoèo ra, rồi hùng hục bươi móc cứ như chọn khoai lang, khoai mì ngoài chợ thì quả là quá khiếp!

Lại có nhiều người chọn lựa chán chê cả mới sách nhưng trên đường ra quầy tính tiền thì sinh ra phân vân lưỡng lự, và cuối cùng là thảy đại mớ sách vào đâu đó cho rảnh nợ. Nếu may mắn thì mớ sách ấy sẽ được đoàn tụ với bà con họ hàng nhà sách tuy lắm lúc xét về đường phả hệ cũng có tức tưởi oan trái một chút. Như vợ chồng nhà bác Bill cựu tổng thống bên Mỹ danh giá là thế lại bị ném vào kệ kỹ thuật chăn nuôi phối giống heo bò dê ngựa gì đấy… Nhưng như thế vẫn còn may mắn chán! Vì nếu xui xẻo thì cũng có thể bị một quý cô dấm dúi vào một xó không những lạc loài mà còn phản văn hoá trầm trọng, như lọt vào đống… đồ lót bát nháo những dây với nhợ, hoặc kệ lủ khủ chai lọ tương cà mắm muối chẳng hạn (vì nhiều nhà sách thường nảy ra thêm khu vực bán đồ tạp phẩm tự chọn để tăng doanh thu). Trường hợp dã man hơn, nhiều khi bịch cá ba sa tẩm cà ri đông lạnh, nước nôi nhen nháo cũng tót lên nằm chung với các em sách khô ráo thơm tho, do bà nội trợ nào đấy tiện tay thảy vào vì không muốn mắc công đi trả hàng về chỗ cũ!

Nhiều bà mẹ đem con vào nhà sách với phương châm coi nhà sách như nhà…mình, có nghĩa đây là môi trường chăn thả tự do, “chúng mày phá được cái gì thì cứ phá!”. Ở những khu bán đồ lắp ráp, xếp hình, búp bê… các kệ hàng luôn trong tình trạng tơi bời hoa lá, vì thường xuyên là cảnh các mẹ lơ đễnh nhìn ngắm vu vơ khắp nơi để con tha hồ “làm giặc”; hoặc cả mẹ lẫn con hăm hở… khai quật tứ tung các kệ hàng, vứt bừa ra sàn các món không thích cho đến khi tìm được món ưng ý mới thôi. Có những bà mẹ cho con tự do xé bao bì, lấy hàng ra chơi chán chê rồi quăng lại. Thậm chí khi bị hư, gãy thì dúi món đồ chơi vào một xó nào đấy để phi tang…

Bà mẹ trẻ nọ mải mê dừng ở khu vực sách “Học cách làm mẹ”, lo coi sách quên cả coi con, để rồi khi bị nhân viên nhà sách mắng vốn vì trẻ làm hư đồ chơi thì tiến hành công tác giáo dục tư tưởng ngay tại chỗ bằng cách bợp cho thằng nhóc mấy phát… Tiếng mẹ hét, tiếng con gào, tiếng nhạc rền rĩ nghe cứ như xem lai-sô ban nhạc rạp nào đấy ngay trong nhà sách! Nhiều bà mẹ lại rất “năng động sáng tạo” khi dỗ con bằng cách khai thác “nguồn tài nguyên” tại chỗ: thằng nhóc đang ngoác mồm mũi dãi lòng thòng thì vơ ngay một con thú nhồi bông gần đấy cho thằng nhóc vần vò nặn vọt gặm nhấm chán chê rồi phũ phàng quăng đâu đó trên đường ra tính tiền. Chỉ tội cho ai mua con thú bông đấy vì có không ít nước dãi lẫn nước mũi tẩm đầy trong ấy!

Ở nhiều nhà sách, khu vực sách nông nghiệp, kỹ thuật, tôn giáo chính là… vùng sâu vùng xa nhưng lại thường được các đôi “uyên ương nhà sách” chiếu cố tới. Theo đúng kiểu “sống là không chờ đợi” nên có rất nhiều anh chị loi choi tranh thủ chọn những góc này để… xen canh, vừa giở sách lại vừa… lật nhau. Các đôi uyên ương cứ thế mà rúc rích tâm tình, hôn hít sờ soạng nháo nhác trước mặt thiên hạ lẫn trẻ nhỏ!

Vào những đợt hội sách, giảm giá sách, có sách “hot” mới về…thì những tiết mục thường xảy ra ở chợ cá-màn xô đẩy chen lấn, giành giựt, la lối… vốn chỉ có ở các bà hàng tôm hàng cá với nhau thì nay áp vào cả những khách hàng có vẻ nho nhã đến nhà sách.
Văn hoá như thế trong nhà sách thì kinh hãi lắm thay!

Sunday, July 26, 2009

Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trưởng


Truy Tìm Căn Nguyên Tăng Trưởng
Tác giả: William Easterly. - Dịch giả: Nhiều Tác Giả.
Nhà xuất bản: Nxb Lao động Xã hội


(TuanVietNam)

4 năm trước, công chúng xôn xao với chủ đề "Cơ hội của Thánh Gióng", làm thế nào tập hợp sức mạnh dân tộc để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm biến Việt Nam thành cường quốc. Giờ đây, không thấy ai nói tới những chuyện "thần kỳ" như vậy nữa.

Sự thực là sự thần kỳ cũng đã diễn ra ở nhiều quốc gia Đông Á. Những vùng đất xưa là cánh đồng lúa, khu ổ chuột chỉ sau 15, 20 năm phát triển bỗng trở thành những khu cao ốc chọc trời như khu Phố Đông ở Thượng Hải. Tuy nhiên, điều tương tự đã không diễn ra ở đa số các quốc gia đang phát triển ở nhiều châu lục khác.

Việt Nam cũng được liệt vào danh sách các quốc gia có tốc độ tăng trưởng khá cao sau hơn 20 năm đổi mới. Nhưng chất lượng, chiều sâu và độ bền vững của tăng trưởng lại bị nghi ngờ. Sự phát triển dựa vào tăng vốn đầu tư và lao động giản đơn hơn là tăng năng suất nhờ cải tiến công nghệ.

Để tăng trưởng với số lượng và chất lượng tốt hơn, vẫn nghe nhiều quan chức, học giả lên tiếng đại loại như: chúng ta cần sử dụng hiệu quả hơn nữa viện trợ phát triển chính thức ODA, chúng ta phải thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài FDI, chúng ta nhất định phải phát triển nền giáo dục, chúng ta nhất thiết phải coi đầu tư vào khoa học công nghệ là ưu tiên hàng đầu…

Rất nhiều "cần", "phải", "nhất thiết", "nhất định". Rất nhiều "mệnh lệnh" đã được đưa ra nhưng vốn ODA vẫn bị xà xẻo, FDI vẫn chậm giải ngân, giáo dục và công nghệ vẫn chậm được cải thiện. Mệnh lệnh, hô hào, khẩu hiệu càng nhiều thì hiệu quả càng ít, xưa nay vẫn vậy…

Câu chuyện trên không chỉ diễn ra ở Việt Nam mà ở rất nhiều quốc gia khác. Các kế hoạch, chính sách, khuyến nghị phát triển… hoặc không được thực thi, hoặc được thực thi thì cũng không mang lại hiệu quả mong muốn trong thực tiễn.

Tại sao lại như vậy? Nhà kinh tế học William Easterly trả lời trong cuốn Truy tìm căn nguyên tăng trưởng.

Con người hành động vì động cơ

William là từng là chuyên gia của Ngân hàng thế giới (WB) về viện trợ và phát triển cho các nước thế giới thứ 3. Hơn 15 năm làm việc ở WB, ông có điều kiện khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố vẫn được coi là "thần dược" cho tăng trưởng kinh tế như: viện trợ, đầu tư, giáo dục, giảm dân số, xóa nợ…

Kết quả khảo sát của William Easterly khá bất ngờ: các thần dược trên không hoàn toàn có mối tương quan tỉ lệ thuận với tăng trưởng. Ở rất nhiều quốc gia, các yếu tố trên thì có nhưng tăng trưởng thì không.

William lý giải thực tế trên bằng một nguyên tắc cơ bản trong kinh tế học: Con người ai cũng hành động vì động cơ.

Để cho dễ hiểu, hãy thử hình dung trong một doanh nghiệp nhà nước có một giám đốc lo cho việc công thì ít mà tìm cách tư túi thì nhiều. Sử dụng vốn nhà nước và lại ít bị kiểm soát, ông không có động cơ phải kinh doanh hiệu quả nên sẽ mặc sức lãng phí, tham nhũng. Nhân viên công ty cũng dễ có xu hướng hành động theo kiểu "biến tài nguyên công ty thành tài sản cá nhân."

Trong tình huống này, nhà nước tiếp tục rót thêm tiền để công ty đầu tư vào máy móc, thiết bị cũng không mang lại hiệu quả vì đơn giản, toàn bộ công ty không có động cơ để kinh doanh hiệu quả.

Có tìm cách giáo dục đào tạo nhân viên cũng chẳng ích gì bởi nhân viên không có động cơ phải học để nâng cao trình độ chuyên môn. Nếu mang quà cáp đến nhà sếp dễ được đề bạt hơn có năng lực thật thì không ai cảm thấy được khuyến khích phải phát triển năng lực cả.

Công ty vay ngân hàng quá nhiều tới mức không có khả năng chi trả, nhà nước tìm cách xóa nợ hay cho vay lãi suất thấp để công ty có điều kiện vực lại. Nhưng các giải pháp trên cũng chỉ mang tính tình thế, công ty thiếu động cơ để phát triển lại càng được thể, tiếp tục vay vốn ưu đãi để thực hiện những dự án hiệu quả thấp, thất thoát cao.

Tóm lại, mọi nỗ lực đầu tư, viện trợ, xóa nợ, giáo dục mà nhà nước ưu đãi cho công ty trên đều vô nghĩa. Các thần dược trên không thể thúc đẩy tăng trưởng khi mà bản thân công ty và những người lãnh đạo vô trách nhiệm của nó không có động lực phải tăng trưởng.

Điều tương tự cũng diễn ra ở cấp độ quốc gia với một chính phủ vô trách nhiệm, mọi thần dược giúp các nước này phát triển cũng như muối bỏ bể. William Easterly lý giải:

"Tăng thêm máy móc sẽ trở thành vô ích khi thiếu động lực phát triển. Có thể máy móc sẽ tạo ra những sản phẩm không ai mong muốn hoặc máy móc thì có nhưng những yếu tố sản xuất đầu vào thì lại không" hoặc "nếu không có động cơ để đầu tư cho tương lai thì việc mở rộng giáo dục chẳng còn mấy giá trị. Cho dù bạn bị buộc phải đến trường thì điều đó cũng không làm thay đổi động cơ để bạn đầu tư vào tương lai. Ở một đất nước mà hoạt động duy nhất đem lại lợi nhuận là vận động hành lang để tìm kiếm ân huệ thì tạo ra những lao động có tay nghề cao không phải là chìa khóa của thành công."

Một chính phủ không bị kiểm soát và cân bằng bởi các lực lượng khác trong xã hội sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng vô trách nhiệm. Chính phủ đó có thể bóp chết tăng trưởng bằng cách dễ dàng nhất là triệt tiêu, kìm hãm động cơ. William chỉ ra trong cuốn sách nhiều dạng thức qua đó chính phủ trực tiếp hay gián tiếp kìm hãm động cơ của xã hội từ tham nhũng, lạm phát, thâm hụt ngân sách tới duy trì tỉ giá chợ đen cao… Khi đó, các nỗ lực phát triển đều dậm chân tại chỗ.

"Thần dược" - có hay không?

Việt Nam thực hiện công cuộc đổi mới từ năm 1986. Đó có thể coi là cuộc giải phóng động cơ lớn lao. Chấp nhận quyền tự do sở hữu tư nhân, tự do kinh doanh đã khiến cho mỗi cá nhân tìm thấy động cơ làm giàu, động cơ phát triển. Mức tăng trưởng khá cao trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua là kết quả của cuộc giải phóng động cơ đó.


Dù vậy, giải phóng động cơ là cần thiết nhưng chưa đủ. Còn cần làm nhiều hơn thế để biến những khu ổ chuột thành cao ốc. Ngay cả khi không bị kìm hãm bởi chính phủ thì cũng không có gì đảm bảo rằng những người dân ở các quốc gia nghèo có được động lực và khuyến khích cần thiết để vươn lên mạnh mẽ hơn. Họ vẫn có xu hướng quẩn quanh trong vòng tròn tiêu cực của thiếu kỳ vọng, niềm tin và nỗ lực.

Việt Nam cũng đang ở ngưỡng loay hoay tìm một con đường phát triển khác với kiểu tăng trưởng theo chiều rộng như hiện nay. Nhiều học giả đã đề cập tới sự cần thiết của một cuộc đổi mới thứ hai, thay đổi căn bản để quá trình phát triển có được bước ngoặt, chất lượng và bền vững hơn. Nhưng thực hiện điều đó trên tư tưởng nào? William Easterly đã rút ra được một số kết luận có giá trị.

Cuốn sách không đưa ra một công thức hay "thần dược" nào cụ thể, nhưng những người làm chính sách ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều gợi mở và khuyến nghị quan trọng cho quá trình đổi mới tiếp theo.


=> lối viết của cuốn này cũng khá lạ nhưng nhiều kiến thức đã lặp đi lặp lại ở các cuốn khác như "Toàn cầu hoá và những mặt trái" hay "Những kẻ giấu mặt trong nền kinh tế châu Á". Tuy nhiên, đọc cuốn này thì thấy hay nhất là "Câu chuyện về hiệu suất tăng dần, sự lan truyền, kết hợp và những cái bẫy" trong phần "Con người hành động vì động cơ". Chương này nói lên tầm quan trọng của việc đầu tư vào tri thức nhưng đồng thời cũn chỉ ra rằng, nếu ko có động cơ thúc đẩy thì sẽ không có sự đầu tư và lan truyền của tri thức. Ví dụ như: quy tắc ra quyết định một cá nhân X về lựa chọn hợp lý việc có đầu tư cho tri thức của anh ta hay không sẽ là tai hại đối với đất nước nhưng ít gây hại cho bản thân anh ta (cái này giống như prisoner's dilemma trong game theory). Một quốc gia có trình độ kỹ năng trung bình thấp sẽ bị kìm hãm tại mức này do không có ai cảm thấy việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng là cần thiết. Những người được đào tạo trong xã hội có rất ít tri thức sẽ không được hưởng nhiều lợi ích như những người sống trong xã hội có nhiều tri thức do khả năng lan truỳên tri thức cũng thấp hơn nhiều. Chính vì thế, động cơ tự đào tạo sẽ yếu dần đi.
Các phần khác của cuốn sách không để lại nhiều ấn tượng cho lắm..

Monday, June 15, 2009

Sự Trở Lại Của Kinh Tế Học Suy Thoái Và Cuộc Khủng Hoảng Năm 2008


Sự Trở Lại Của Kinh Tế Học Suy Thoái Và Cuộc Khủng Hoảng Năm 2008
Tác giả: Paul Krugman. - Dịch giả: Nhiều dịch giả.
Nhà xuất bản: Nxb Trẻ
Số trang: 256
Hình thức bìa: Bìa mềm
Kích thước: 14,5 x 20,5 cm
Ngày xuất bản: 05 - 2009

Giới thiệu về nội dung (Vinabook)

Chủ nhân duy nhất của Nobel Kinh tế 2008 đã diễn giải sự tương đồng kỳ lạ giữa cuộc khủng hoảng hiện tại và những sự kiện đã gây ra Đại suy thoái 1929-1933; và giải thích những phương cách để tránh khỏi thảm họa.

Đa số các nhà kinh tế, trong mức độ mà họ suy nghĩ về đề tài này, đều cho rằng cuộc Đại suy thoái của thập niên 1930 chỉ là một thảm họa vu vơ và không cần thiết. Phải chi Herbert Hoover không cố gắng cân bằng ngân sách trong bối cảnh kinh tế suy thoái; phải chi Cục Dự trữ Liên bang không bảo vệ chế độ bản vị vàng bất chấp cái giá phải trả là nền kinh tế quốc nội; phải chi người ta cung cấp thanh khoản cho các ngân hàng gặp khó khăn để làm dịu sự sợ hãi trong hệ thống ngân hàng gặp khó khăn để làm dịu sự sợ hãi trong hệ thống ngân hàng những năm 1930-1931… thì vụ sụp đổ của thị trường chứng khoán năm 1929 cũng chỉ dẫn tới một cuộc suy thoái bình thường, không đáng để ý và chắc chắn sẽ rơi vào quên lãng. Do các nhà kinh tế và những nhà làm chính sách đã “thuộc bài”… dường như một cuộc Đại suy thoái tương tự sẽ không bao giờ có cơ may xảy ra nữa.

Liệu điều này có đúng hay không?

… Ngoài ra, dù mục tiêu sau cùng của cuốn sách là phân tích (analytical), đa phần nội dung lại bao gồm lối văn kể chuyện (narrative). Một phần là vì thứ tự trước sau của các sự kiện (ở đây có thể xem như cốt truyện) là một minh chứng quan trọng cho ý nghĩa và tính chính xác của lý thuyết đề ra (chẳng hạn, quan điểm “chính thống” về khủng hoảng kinh tế xem khủng hoảng là một hình phạt đích đáng dành cho một số nền kinh tế, đã không thể được biện minh khi đối mặt với thực tế: vài nền kinh tế có vẻ ngoài rất khác biệt cùng gặp khủng hoảng trong vài tháng gần nhau – một sự trùng hợp đặc biệt thú vị!). Ngoài ra, tôi cũng nhận ra rằng các sự kiện nối tiếp nhau cũng cung cấp bối cảnh cần thiết cho các nỗ lực tìm hiểu và giải thích của tôi, và rằng không phải ai cũng có điều kiện theo dõi sâu sát những sự kiện đặc biệt kịch tính trong mười tám tháng vừa qua. Cũng như ít ai nhớ chính xác những gì Thủ tướng Mahathir phát biểu tại Kuala Lumpur hồi tháng 8 năm 1997 và liên hệ chúng với những gì Donald Tsang đã làm ở Hongkong một năm sau đó! Trong những trường hợp như vậy, những câu chuyện được kể trong cuốn sách này sẽ giúp các bạn cùng hồi tưởng lại và suy ngẫm…

Theo Tuần Việt Nam
Sự trở lại của kinh tế học suy thoái
(Thứ năm, 21/05/2009 02:37:08 PM)

Krugman viết cuốn Sự trở lại của kinh tế học suy thoái vào năm 1999. Sau đó đúng 10 năm, cuốn sách được tái bản với nhiều phần bổ sung. Sự trở lại của cuốn sách giờ đã mang một ý nghĩa khác hẳn, không chỉ bởi tác giả của nó vừa mới đoạt giải Nobel Kinh tế năm 2008, mà còn bởi, cũng năm ấy, một cuộc khủng hoảng kinh thiên động địa đã trở lại như những dự phóng của ông.

Hài hước và bình dân, Krugman đã không dùng những thuật ngữ và mô hình hàn lâm để lý giải khủng hoảng. Ông viết bằng thứ ngôn ngữ đời thường để những người bình thường có thể hiểu được những gì đang diễn ra trong một thế giới kinh tế phức tạp. Thi thoảng, Krugman đơn giản hóa thế giới đó bằng những ẩn dụ và so sánh ngộ nghĩnh.

Krugman đã khảo sát các cuộc khủng hoảng kinh tế và ông nhận thấy dường như mọi cuộc khủng hoảng đều có một điểm chung: niềm tin tiêu cực tự nó biến thành sự thật. Cho dù niềm tin tiêu cực thể hiện ở thị trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường bất động sản hay thị trường hàng hóa tiêu dùng thì chúng cũng tạo ra những hệ luỵ nguy hiểm cho nền kinh tế. Suy thoái chìm sâu vào suy thoái, khủng hoảng lại tạo ra khủng hoảng.

Cuộc khủng hoảng năm 2008 cũng hoàn toàn tương tự như thế, nó là sự tổng hợp nhiều đặc điểm của toàn bộ những cuộc khủng hoảng đã từng diễn ra. Và cho tới bây giờ, vẫn thấy chỉ có liều thuốc là các gói kích thích kinh tế, mở rộng tín dụng.

Krugman cũng không đưa ra được giải pháp nào mới trong ngắn hạn ngoài việc kêu gọi kích thích tín dụng: "nếu những gì đã làm là chưa đủ, phải tiếp tục làm và làm cả những việc khác, cho đến khi tín dụng bắt đầu chẩy và nền kinh tế thực bắt đầu hồi phục."

Trong dài hạn, Krugman cũng chỉ nhấn mạnh sự cần thiết của việc điều tiết thị trường tài chính và quản lý quá trình toàn cầu hóa tài chính sao cho chúng không đi theo những quỹ đạo rủi ro quá mức. Đây cũng không phải là những ý mới.

Thế giới thực tất nhiên phức tạp hơn nhiều so với vườn trẻ trong giả định của Krugman. Quản lý nền kinh tế thực chắc chắn cũng phức tạp hơn hợp tác xã giữ trẻ giả định trên. Nhưng có vẻ các suy thoái trong hai thế giới đó khá giống nhau về bản chất tự nhiên của chúng và giải pháp loại trừ khủng hoảng cũng không có gì cao siêu ngoài việc “bơm” coupon nhiều hơn nữa. Cho dù, lịch sử đã chứng minh biện pháp đó không phải lúc nào cũng hiệu quả và thực hiện được.

Nếu thế thì, 2008 sẽ chưa thể là cuộc khủng hoảng cuối cùng và Krugman cũng không tự "vơ" vào mình trách nhiệm kê ra "toa thuốc miễn dịch" khủng hoảng cho bất kỳ nền kinh tế nào, điều ông làm được, có chăng là những kiến giải minh triết và đi vào bản chất mà thôi.

Khánh Duy

(Nguồn: Báo Tuần Việt Nam)

=> Sách viết theo lối bình dị, dễ hiểu cả cho những người ít chuyên môn về kinh tế vì sử dụng nhiều ví dụ đơn giản để minh hoạ. Một loạt những cuâ chuyện từ khủng hoảng những năm 30 ở Mỹ đến khủng hoảng Argentina, Thailand, Malaysia ... sự sụp đổ của Bảng Anh, quỹ LTCM... Tuy nhiên, "cảm giác" rằng những ý kiến trong phần cuối có vẻ "hơi nhạt". Dù sao, đây cũng là cuốn đáng đọc để có một hệ thống thông tin về suy thoái từ trước đến nay.

Update 31 Jul 2009:
Free download here (english version)