Monday, November 30, 2009

MẬT MÃ TỪ CỔ ĐIỂN ĐẾN LƯỢNG TỬ - Simon Singh


Tác giả: Simon Singh.
Dịch giả: Phạm Vǎn Thiều. Phạm Thu Hằng.
Nhà xuất bản: Nxb Trẻ
Số trang: 492
Hình thức bìa: Bìa mềm
Kích thước: 14.5x20.5 cm
Ngày xuất bản: 07 - 2008
Trọng lượng: 600 gram
Giá bìa: 89.000 VNĐ

“Trong hàng ngàn năm, vua chúa cũng như các tướng lĩnh đều dựa vào mạng lưới thông tin liên lạc hiểu quả để cai trị đất nước và chỉ huy quân đội của mình. Đồng thời, tất cả họ đều ý thức được những hậu quả của việc để lọt thông tin của mình vào tay đối phương, để lộ những bí mật quý giá cho các nước thù địch cũng như hậu quả của sự phản bội cung cấp thông tin sống còn cho các lực lượng đối kháng. Chính nỗi lo sợ bị kẻ thù xem trộm đã thúc đẩy sự ra đời và phát triển của mật mã: đó là những kỹ thuật nhằm che giấu, ngụy trang thông tin, khiến cho chỉ những người cần được nhận mới có thề đọc được.

Mong muốn giữ bí mật đã khiến các quốc gia thiết lập những cơ quan mật mã, có nhiệm vụ đảm bảo an toàn cho thông tin liên lạc bằng việc phát mình và sử dụng những mật mã tốt nhất có thể được. Trong khi đó, những người phá mã của đối phương cũng lại cố gắng để giải mã và đánh cắp những bí mật. Người giải mã là những nhà “giả kim thuật” về ngôn ngữ, một nhóm người bí ẩn chuyên tìm cách phỏng đoán những từ ngữ có nghĩa từ những ký hiệu vô nghĩa. Lịch sử của mật mã là câu chuyện về cuộc chiến kéo dài hàng thế kỷ giữa người lập mã và người giải mã, cuộc chạy đua vũ khí trí tuệ đã có tác động rất to lớn đến tiến trình của lịch sử.

Khi viết cuốn Mật mã này, tác giả có hai mục đích chính. Một là nhằm phác họa sự tiến hóa của mật mã. Từ tiến hóa dùng ở đây là hoàn toàn thích hợp vì sự phát triển của mật mã cũng có thể coi là một cuộc đấu tranh tiến hoá. Một mật mã luôn bị người phá mã tấn công. Khi người phá mã đã tìm ra một vũ khí mới để phát hiện điểm yếu của một mật mã thì mật mã đó không còn hữu dụng nữa. Khi đó hoặc nó sẽ bị xoá sổ hoặc nó sẽ được cải tiến thành một loại mật mã mới, mạnh hơn. Đến lượt mình, mật mã mới này chỉ phát triển mạnh mẽ cho tới khi người phá mã lại xác định được điểm yếu của nó, và cứ tiếp tục mãi như vậy. Điều này cũng tương tự như tình huống đối mặt với một giống vi khuẩn gây bệnh chẳng hạn. Vi khuẩn sống, phát triển mạnh và tồn tại cho đến khi bác sĩ tìm ra chất kháng sinh làm lộ ra những điểm yếu của vi khuẩn và tiêu diệt nó. Vi khuẩn buộc phải tiến hoá và lừa lại kháng sinh, và nếu thành công thì chúng sẽ lại phát triển mạnh mẽ và tái xác lập trở lại. Vi khuẩn liên tục bị buộc phải tiến hoá để sống sót trước sự tấn công dữ dội của các loại kháng sinh mới.

Cuộc chiến liên miên giữa người lập mã và người phá mã đã thúc đẩy hàng loạt những đột phá khoa học đáng kể. Người lập mật mã đã liên tục cố gắng xây dựng những loại mã mạnh hơn bao giờ hết để bảo vệ thông tin, trong khi những người phá mã cũng lại kiên trì tìm ra những phương pháp mạnh hơn nữa để phá vở chúng. Trong những cố gắng nhằm phá vỡ và bảo vệ thông tin bí mật, cả hai phía đã phải huy động nhiều lĩnh vực chuyên môn và công nghệ khác nhau, từ toán học cho tới ngôn ngữ học từ lý thuyết thông tin cho đến lý thuyết lượng tử. Đổi lại, những người lập mã và phá mã cũng đã làm giàu thêm cho những lĩnh vực này và thành quả của họ đã đẩy nhanh tốc độ phát triển cộng nghệ, mà đáng kể nhất là trong lĩnh vực máy tính hiện đại…”

Mục lục:

Mở đầu

Bản mật mã của nữ hoàng Mary xứ Scotland

Le Chiffre Indécheffable

Cơ giới hoá việc giữ bí mật

Công phá Enigma

Rào cản ngôn ngữ

Alice và Bob ra công khai

Riêng tư tốt đẹp

Bước nhảy lượng tử vào tương lai



Trong lịch sử nhân loại đã xảy ra những cuộc chiến tranh tàn khốc, như hai cuộc thế chiến đầu thế kỷ 20. Tuy nhiên, bên cạnh những cuộc chiến bên ngoài chiến trường, thì ẩn bên trong nó lại là một cuộc chiến khác: cuộc chiến về thông tin. Đã có truyền tin thì tất nhiên cần phải có yêu cầu giữ bí mật. Thế là ngành khoa học mật mã (cryptography) ra đời để phục vụ cho yêu cầu đó.



Cuốn sách “Mật mã” (The Code Book) sẽ dẫn dắt chúng ta nhìn lại lịch sử dưới góc nhìn của mật mã học. Cuốn sách bắt đầu bằng những dạng mật mã đơn giản nhất ra đời từ cuối thế kỷ 16 và kết thúc ở cuối thế kỷ 20 bằng việc giới thiệu về ý tưởng mật mã lượng tử, một loại mật mã được cho là bất khả chiến bại dựa trên lý thuyết lượng tử.



Simon Singh, tác giả cuốn sách, là tiến sĩ vật lý người Anh gốc Ấn Độ. Ông là một nhà khoa học tài năng và đã từng có nhiều đóng góp đáng kể trong việc phổ biến khoa học dưới nhiều hình thức: từ viết sách đến tham gia làm phim tài liệu khoa học. Ngoài cuốn The Code Book, trước đó ông còn là tác giả một cuốn sách khá nổi tiếng Fermat’s Last Theorem (Định lý cuối cùng của Fermat), và chính ông cũng là đạo diễn bộ phim tài liệu cho chuyên mục Horizon của BBC (chuyên mục nói về lĩnh vực khoa học công nghệ) về đề tài định lý Fermat này.



Cuốn sách The Code Book được Simon Singh trình bày rất dễ hiểu, bạn không cần phải lo cho dù bạn không thật sự giỏi về toán học, vì mỗi khi gặp một khái niệm toán học có vẻ lạ lẫm thì Simon sẽ dừng lại vài dòng, thậm chí cả trang sách, để giải thích nó rồi mới đi tiếp. Do đó chỉ cần bạn biết làm bốn phép tính cộng-trừ-nhân-chia cùng với một sự tò mò về thế giới mật mã là đủ để đọc cuốn sách.



Ban đầu, người ta chỉ nghĩ ra những loại mật mã đơn giản, đủ để che giấu nội dung thông tin. Kiểu như xáo trộn vị trí các chữ cái, hay là thay thế chữ cái này bằng một chữ cái khác, v.v… Nhưng chẳng bao lâu sau thì những loại mật mã thế này đều bị các nhà giải mã phá được. Thế là có sự liên tục đổi mới trong cách tạo mã tạo ra một cuộc chiến trường kỳ giữa những nhà tạo mã và những nhà giải mã. Có người giải mã ra được thì bắt đầu nảy sinh tìm loại mật mã mới, và khi một loại mật mã mới ra đời thì các nhà giải mã lại phải lao đầu vào nghĩ cách hóa giải. Thậm chí người ta phải lập ra những đội ngũ chuyên nghiệp chỉ để làm công việc giải mã thông tin của đối phương.



Trong lịch sử mật mã học, có những bước ngoặt đáng kể đã góp phần không nhỏ trong việc quyết định lịch sử thế giới nói chung.



1. Máy Enigma



Bước ngoặt đầu tiên chính là việc cơ giới hóa việc tạo mã, bằng sự ra đời của hệ thống mật mã Enigma. Đây chính là vũ khí lợi hại nhất cũng như là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thất bại của Đức quốc xã trong thời kỳ thế chiến thứ hai. Chính cái máy Enigma này là nguồn động lực làm nảy sinh ra những ý tưởng đột phát về công nghệ trong thế kỷ 20. Ý tưởng vĩ đại nhất có lẽ thuộc về Alan Turing, người có công lớn nhất trong việc hóa giải máy Enigma, khi trong quá trình giải mã Enigma ông đã hình thành một ý niệm về một cỗ máy được gọi là Turing Machine - tiền đề cho sự phát minh máy tính sau này.



Ngoài ra, cũng vào thời kỳ thế chiến thứ hai thì lịch sử khoa học mật mã đã chứng kiến một loại mật mã bất khả xâm phạm đúng nghĩa của nó. Đó là loại mật mã dùng ngôn ngữ của người địa phương Navajo đang sinh sống tại vùng đất Arizona ở Mỹ. Navajo là một bộ lạc rất nhỏ, và thổ âm Navajo là một dạng ngôn ngữ cực kỳ hiếm gặp, cả nước Mỹ ngoại trừ vài ba chục người là có nghiên cứu, ngoài ra nếu không phải là người Navajo thì trên thế giới chẳng một ai có thể hiểu nổi ngôn ngữ này. Người Mỹ đã dùng ngôn ngữ này cùng với những người Navajo biết tiếng Anh làm mật mã liên lạc, và họ đã có được một hệ thống mật mã tuyệt đối an toàn.



Như vậy có thể nói thế chiến thứ hai chính là cuộc chiến cân não giữa hai phe tạo mã và giải mã. Nếu như ngày đó, Alan Turing vì một lý do nào đó không thể hoàn thành sứ mệnh giải mã Engima của mình, thì có lẽ lịch sử thế giới đã rẽ sang một hướng khác.



2. Giải mã các văn tự cổ xưa



Một đỉnh cao trong lịch sử mật mã học cũng như khảo cổ học chính là việc giải mã những văn tự cổ xưa bao gồm những chữ tượng hình của Ai Cập cổ đại cũng như chữ Linear B nổi tiếng của Hy Lạp cổ đại. Chữ tượng hình Ai Cập cổ đại đã nhờ vào phiến đá Rosetta (Rosetta Stone, là phiến đá trên đó có chữ tượng hình Ai Cập kèm với chữ demotic và chữ Hy Lạp) làm cơ sở để giải mã. Jean-Francois Champollion là người đã hoàn thiện việc giải mã các chữ tượng hình này, và thành quả này của ông còn có một phần không nhỏ đóng góp của một nhà khoa học đa năng Thomas Young.



Nếu như chữ tượng hình Ai Cập cổ đại còn có Rosetta Stone làm cơ sở giải mã thì chữ Linear B hoàn toàn không có gì. Dù vậy nó vẫn được giải mã bởi Michael Ventris, vốn là một kiến trúc sư, với sự góp sức của nhà nghiên cứu Hy Lạp cổ đại John Chadwick. Có thể nói việc giải mã được các văn tự cổ xưa đã cho thấy sức sáng tạo và tưởng tượng của con người dường như không có giới hạn, và đó cũng chính là một bước ngoặt khác trong lịch sử nhân loại trong việc khám phá lịch sử các nền văn minh cổ đại.



3. Phân phối chìa khóa mã



Trong khoa học mật mã, có một vấn đề cực kỳ quan trọng, mà mãi sau thế chiến thứ hai thì người ta mới tìm ra cách giải quyết triệt để nó. Đó chính là vấn đề phân phối chìa khóa mã. Muốn giải mã thì bắt buộc phải có chìa khóa, và làm thế nào để người nhận có được chìa khóa mã một cách an toàn nhất. Có lẽ chỉ có cách gặp mặt trực tiếp nhau, vì nếu trao đổi qua vô tuyến thì sẽ bị rò rỉ thông tin ngay. Hãy tưởng tượng bạn tạo ra mật mã để liên lạc với hàng ngàn người trên thế giới, và phải gặp mặt từng người để trao chìa khóa mã, thế thì sẽ phải tốn rất nhiều nguồn nhân lực và chi phí chỉ để phục vụ cho chuyện phân phối chìa khóa này. Như vậy với việc kinh tế phát triển, nhu cầu đòi hỏi bảo mật thông tin ngày càng cao với mật độ ngày càng lớn, thì việc làm sao phân phối chìa khóa mã một cách an toàn và hiệu quả nhất đã trở thành một bài toán nhức đầu khác cho giới khoa học mật mã.



Đã có một ý tưởng nhen nhóm lên cho việc giải quyết vấn đề này. Hãy tưởng tượng thông tin cần được gửi là bức thư đựng trong một hộp sắt, với ổ khóa chính là mật mã dùng để mã hóa bức thư, và chìa khóa mở ổ khóa chính là chìa khóa mã. Anh A giờ đây muốn đưa thông tin cho anh B thì phải tìm cách làm sao đưa luôn chìa khóa mã cho anh B mà không cần phải gặp mặt. Đặt trường hợp là nếu gửi chìa khóa qua bưu điện thì cơ may chìa khóa bị lọt ra ngoài là rất cao. Thế là A và B quyết định thế này: anh A dùng một cái hộp có 2 lỗ khóa để có thể khóa lại bằng 2 ổ khóa. Anh A bóp ổ khóa của mình lại, ổ khóa A, và giữ chìa khóa A cho riêng mình. Đưa sang anh B, anh B lại dùng ổ khóa của mình, ổ khóa B, để khóa cái hộp thêm lần nữa, và cũng giữ chìa cho riêng mình, rồi gửi về lại anh A. Anh A thấy lúc này cái hộp đã được khóa tới 2 ổ khóa, nên đã lấy chìa của mình mở ổ khóa A, xong rồi gửi sang anh B. Lúc này cái hộp còn lại duy nhất một ổ khóa mà chỉ anh B mới mở được, nên cho dù cái hộp bị đánh cắp thì người ta cũng chẳng tài nào mở nổi. Và anh B chỉ việc lấy chìa của mình mở ổ khóa B rồi đọc thư.



Tuy nhiên, ý tưởng là thế, nhưng trong khoa học mật mã nếu áp dụng đúng như vậy thì sẽ nảy sinh một vấn đề khác thuộc về logic: đó là trình tự giải mã. Cái hộp có 2 ổ khóa, mở ổ nào trước đi nữa thì cái hộp cũng được mở ra. Nhưng một văn bản được mã hóa cần phải được giải mã theo trình tự “vào trước-ra sau”. Tức là nếu văn bản được mã hóa 2 lần thì người nào mã hóa sau cùng sẽ phải giải mã nó đầu tiên nếu muốn bức thư hoàn toàn được giải. Trở lại câu chuyện lúc nãy, vì anh B mã hóa bức thư cuối cùng nên anh B phải giải mã bức thư ra đầu tiên, rồi đưa anh A giải mã lần nữa thì bức thư mới có thể đọc được, nhưng anh B mới là người cần đọc bức thư, nên nếu làm vậy thì khi bức thư được giải mã hoàn toàn thì nó lại ở chỗí anh A, như vậy thì cũng vô dụng.



Dù ý tưởng có điểm không logic như vậy, đó chính là động lực cho các nhà khoa học mật mã đi tìm lời giải. Ở khúc này có một chi tiết cực hay liên quan đến việc tạo mã, chính chi tiết này đã giúp cho người ta vượt qua được sức ì tâm lý bao lâu nay để giải quyết được vấn đề phân phối chìa khóa mã. Từ đó hình thành loại mật mã mới khác, đuợc cho là không thể phá vỡ, vào cuối thế kỷ 20: mật mã RSA.



4. Mật mã lượng tử



Tuy vào thời điểm cuối thế kỷ 20, RSA là mật mã cực mạnh rồi, nhưng người ta lại phải đối diện với nguy cơ nó sẽ bị phá vỡ. Lúc này, lý thuyết lượng tử bắt đầu đóng vai trò của nó. Sở dĩ mật mã RSA không bị phá nổi là vì hạn chế ở các máy tính, cho dù máy tính có phát triển kiểu tốc độ xung tăng gấp đôi sau 18 tháng thì cũng phải mất cả ngàn năm mới đủ mạnh để phá vỡ RSA. Thế nhưng với một máy tính lượng tử thì chỉ mất dăm ba phút. Để đối phó trước với sự xuất hiện máy tính lượng tử sau này, người ta bắt đầu nghĩ đến một dạng mật mã tuyệt đối, tức là mãi mãi không thể phá vỡ. Và khái niệm về mật mã lượng tử đã ra đời.

Có thể thấy ngành khoa học mật mã đã quy tụ rất nhiều lĩnh vực: từ toán học, đến ngôn ngữ học, và rồi lý thuyết lượng tử của ngành vật lý học cũng góp mặt vào. Không chỉ trình bày về những loại mật mã khác nhau qua từng thời kỳ, mà Simon Singh còn thông qua mật mã học để kể các câu chuyện lịch sử, những câu chuyện bên lề của những nhà khoa học thiên tài như Alan Turing, Thomas Young, Jean-Francois Champollion, Michael Ventris,v.v… Do vậy đây hoàn toàn không phải là một cuốn sách khô khan toàn số với chữ cùng những công thức toán học này nọ. Trái lại những câu chuyện mang tính lịch sử trong cuốn sách sẽ khiến người đọc cảm giác như đang đọc một cuốn tiểu thuyết trong đó nội dung chính là cuộc chiến cân não giữa hai phe lập mã và giải mã.


=> sách hay, đáng để đọc và tìm hiểu về quá trình tiến hoá của mật mã và cách phá giải từng loại mật mã nhờ vào sự cần mẫn (kiểm tra tần suất), trí thông minh (thuật toán), một chút may mắn (gián điệp), tàn nhẫn (thả bom để đánh cắp bản mã).
Trong xuyên suốt quá trình phát triển của mật mã, vấn đề tạo khoá mã và phân phối khoá mã luôn là những vấn đề nhức đầu của cả phe tạo mã lần giải mã. Và đây cũng là cả 1 cuộc chiến tiếp diễn.
Đọc sách này hiểu thêm được 1 số từ khoá, hiểu được mật mã đóng vai trò quan trọng như thế nào trong chiến tranh, hiểu thêm ngôn ngữ cũng là một loại mật mã (văn tự cổ cũng có thể xem là ngôn ngữ của người xưa), mỗi tiền cũng là một loại mật mã.
Phần cuối của sách là về thuyết lượng tử, cách tạo tiền photon thú vị nhưng khó hiểu quá.

Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá




Tác giả: Phạm Minh Chính, Vương Quân Hoàng
Nhà xuất bản: Chính trị Quốc gia
Hợp tác phát hành: VNN Publishing
Dòng sách: VNN Other
Khổ sách: 15x22
Kiểu sách: Bìa cứng
Số trang: 556
Giá bìa: 80.000
Thời gian xuất bản: Quý II/209


NXB Chính trị Quốc gia giới thiệu cùng bạn đọc tác phẩm về kinh tế Việt Nam của hai tác giả Phạm Minh Chính và Vương Quân Hoàng.

Bản thảo Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá khép lại vào lúc mà lãi suất cơ bản và lãi suất huy động - cho vay thương mại ở Việt Nam đang giảm nhanh sau một năm 2008 căng thẳng. Thông tin tài chính của tốp doanh nghiệp niêm yết dẫn đầu trên thị trường chứng khoán Việt Nam ở cả hai đầu Tổ quốc đang hé lộ cho bức tranh kinh tế le lói ánh sáng đường ra trong cơn sóng gió tài chính nổi lên từ tháng 10 năm 2007. Tới cuối năm 2008, tỷ lệ lạm phát của cả năm giảm xuống còn 19,9% thay vì 25% - 30% như đã từng được dự báo. Những lo lắng về mức giá cả tăng cao được thay bằng quan ngại về khả năng suy giảm và đình trệ tăng trưởng kinh tế.

Với mức tăng trưởng 6,18% cho năm 2008, nền kinh tế Việt Nam vẫn được xem có mức tăng trưởng ấn tượng trong một bối cảnh toàn cầu ảm đạm. Nhưng ngay ở thời điểm này, chưa ai dám nghĩ tới sự chấm dứt các rắc rối của chuỗi vấn đề kinh tế vi mô và vĩ mô đan xen nhau... Cuộc khủng hoảng tài chính Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 12 năm 2008 đã chấm dứt sứ mệnh của 25 ngân hàng thương mại Hoa Kỳ, chỉ trong một năm, tính từ tháng 10 năm 2007. Bão tố đã lan đi khắp nơi, sang cả Tây Âu, Đông Âu, Nam Mỹ và châu Á. Có lẽ, không một ngóc ngách nào của nền kinh tế toàn cầu, đang được đặt trong các nỗ lực nhất thể hóa cao độ của WTO, WB, IMF cũng như nhiều tổ chức đa phương quốc tế khác, lại có thể miễn nhiễm khỏi căn bệnh tụt huyết áp tài chính ghê gớm này.

Bên cạnh những khó khăn khiến cho đời sống của hàng tỷ con người khắp trái đất bị ảnh hưởng nghiêm trọng, những lý thuyết kinh tế học và phương pháp ứng xử quy mô lớn cho các quốc gia, không phân biệt giàu - nghèo, lớn - bé, cũng đang bị thách thức nghiêm trọng. Niềm tin vào các hệ thống lý thuyết được xây dựng từ nhiều thập kỷ, và đặc biệt phát triển lên tầm cỡ đỉnh cao sau cuộc Đại suy thoái 1929-1933, đang bị xói mòn. Hệ thống kinh tế học ấy như một cơ thể cường tráng, bị những căn bệnh quái ác làm cho suy sụp. Những căn bệnh sinh ra bởi các đoàn quân virus đang làm xói mòn sức chống đỡ của niềm tin.

Không thể không tự hỏi, vậy sự phát triển trong hơn 20 năm Đổi Mới của Việt Nam nằm ở đâu trong lịch sử của dân tộc, của nền kinh tế toàn cầu đương đại và của số phận nhân loại. Có lẽ, không một ai, với sự tâm huyết dành cho dân tộc Việt Nam, sự trăn trở và những nỗ lực của người Việt Nam, lại không thấy được nỗi truân chuyên của một hành trình đầy thăng trầm, những bước đột phá và cả những bài học sâu sắc, không chỉ dành cho nhận thức lịch sử, mà còn có cả ý nghĩa hướng tới giải pháp tương lai.

Kinh tế Việt Nam: Thăng trầm và Đột phá được viết ra với tinh thần như thế: vì Việt Nam, do Việt Nam và của Việt Nam.

Để phản ánh thực tế của một tiến trình dài lâu, cuốn sách được viết thành ba phần cơ bản. Phần I là các quá trình với những thay đổi có mặt tích cực, có mặt hạn chế, trải dài theo thời gian mà ký ức về chúng vẫn còn in sâu trong nhiều thế hệ công dân. Phần II, đã có những đột phá được chủ kiến đúng và cả sự thúc ép của các điều kiện kinh tế. Những đột phá ấy được xem xét trong cuốn sách như những phạm trù trọn vẹn, là những điểm nhấn làm sáng rõ các hành trình thời gian mà số đông sự kiện có thể che khuất bản chất “đột phá” của những sự kiện có tính chất bước ngoặt, như thay đổi cấu trúc, chuyển hướng tư duy, bứt phá về mô hình. Phần III, các vấn đề kinh tế vi mô và vĩ mô thường không chỉ xuất hiện một lần, mà lặp đi lặp lại, ở các dạng thức khác nhau, lúc ẩn lúc hiện. Có những vấn đề và bài học mà ích lợi của việc nhận thức, sự đột phá về cơ cấu và tư duy kinh tế không bị bó hẹp trong một khoảng không gian và thời gian cụ thể. Đó còn là những quy luật phổ quát, có xu hướng lặp lại và biến thể mỗi lúc một phức tạp và bất ngờ hơn.

Ba phần này tiếp cận nền kinh tế như một chỉnh thể sống trong không gian và thời gian hợp lý, có tính lôgic và những nhận thức có lợi cho tư duy kinh tế lâu dài.

Cần phải nói ngay rằng trọng tâm được trình bày trong cuốn sách là hệ thống các thị trường và phương tiện kiểm soát tài chính tiền tệ. Lý do thật đơn giản là vì: Công cụ tài chính tiền tệ ngày nay đã trở thành vũ khí chủ lực để các thể chế và chính phủ sử dụng chống lại những kẻ thù kinh tế, ẩn mình dưới những biến động bất thường, có tính tàn phá và làm xói mòn sự bền vững của nền tảng kinh tế. Một phần quan trọng khác là nền kinh tế thị trường có sự kiểm soát của Nhà nước ngày càng rõ rệt ở Việt Nam, trong đó các thị trường tài chính có ảnh hưởng ngày một mạnh mẽ.

Chủ thể của 538 trang sách là nền kinh tế của Việt Nam, với trọng tâm nghiên cứu đặt vào hệ thống tài chính - tín dụng - tiền tệ. Bức tranh toàn cảnh nền kinh tế Việt Nam được trình bày với mong muốn để lại trong độc giả những suy nghĩ về hành trình tiếp tục chinh phục nền kinh tế toàn cầu cùng giấc mơ nước Việt Nam thịnh vượng.

Các nhà quản lý, nghiên cứu chính sách, đầu tư, giới phân tích, người quan tâm kinh doanh, có nhu cầu tìm hiểu kiến thức kinh tế - xã hội tìm thấy ở cuốn sách nguồn tra cứu thuận tiện với các thuật ngữ, vấn đề, hiện tượng nổi trội của kinh tế Việt Nam được liệt kê cùng số trang tương ứng trong phần Tra cứu ở cuối sách.

Một vài ý phân tích có thể được lặp lại ở các phần khác nhau của cuốn sách do các vấn đề và hiện tượng đặc trưng có tính phổ quát trong nền kinh tế. Bong bóng tài sản tồn tại cả với thị trường bất động sản và thị trường chứng khoán. Hiện tượng nhập siêu từng xuất hiện trong thời kỳ đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, lặp lại ở giai đoạn 1986-1988, được bàn tiếp trong những năm 1994-1998, và lại có trong chương trình nghị sự của các kỳ họp Quốc hội năm 2008. Hiện tượng “bầy đàn” thể hiện rất rõ ràng qua hình ảnh chen nhau mua vàng vào lúc giá lên, vay mượn mua chứng khoán lúc VN-Index ở đỉnh, thế rồi, lại đổ xô đi đặt lệnh bán khi chỉ số giá sụt giảm.

Một lẽ tự nhiên, một hành trình dài với nhiều thay đổi quan trọng đã để lại nhiều câu hỏi trong quá khứ và có thể sớm gặp lại trong tương lai. Những vòng xoáy của thăng trầm và những đột phá lớn cũng đặt ra các vấn đề rất bản chất, hữu cơ với hệ thống kinh tế chính trị của đất nước. Những vấn đề ấy không nhất thiết phải có một câu trả lời duy nhất đúng, một đáp án được sắp sẵn để sử dụng.

Các vấn đề kinh tế học ngày càng cho thấy rõ bản chất kinh tế - chính trị đan xen phức tạp, với các hệ thống lợi ích tổng thể hay cục bộ, thống trị hay phục tùng. Nền kinh tế Việt Nam đang mỗi lúc một tiến sát tới biên giới của các hệ thống trò chơi kinh tế - chính trị tác động qua lại hết sức rắc rối của các lực lượng đến từ toàn cầu.

Có thể coi đây là một cuộc chiến không khoan nhượng về lợi ích, mà về lâu dài, các mỹ từ như “cùng có lợi”' hay “chia sẻ lợi ích” hoặc “thương mại công bằng'”... là những khoảng dừng dễ thở của một cuộc leo dốc cạnh tranh quyền lợi khốc liệt, giành giật và kiểm soát tài nguyên, khống chế các vũ khí kinh tế có thể điều khiển các bộ phận kinh tế nòng cốt... như đã từng thấy với dầu mỏ, vàng, mặt nước, phân phối điều tiết dòng tài chính, v.v...

Vậy những suy nghĩ về đường hướng phát triển kinh tế của chính người Việt Nam đâu? Ai quan tâm? Ai đã làm gì? Ai được hưởng? Như đã từng vượt qua những ghềnh thác đầy thách thức của lịch sử, những biến cố kinh tế mới đây và sẽ còn tiếp tục trong tương lai được coi là cơ hội để nền kinh tế thị trường non trẻ của Việt Nam điều chỉnh thích ứng hợp lý, tích lũy kinh nghiệm và năng lượng cho một thời kỳ phát triển mới của lịch sử kinh tế đương đại Việt Nam.

Cuốn sách được biên soạn trong một thời gian dài, với rất nhiều công sức và tinh thần trách nhiệm cao nhất. Tuy nhiên, sai sót là không thể tránh khỏi. Các tác giả cảm ơn Nhà xuất bản Chính trị quốc gia đã phối hợp biên tập và xuất bản cuốn sách, giới thiệu cuốn sách tới độc giả cả nước.

Và cuối cùng, cũng là quan trọng nhất, các tác giả gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới bạn đọc và rất mong được độc giả đóng góp ý kiến để tiếp tục hoàn thiện cuốn sách.

Phạm Minh Chính và Vương Quân Hoàng

=> sách hay, đáng mua đáng đọc.
Tớ thích cuốn này ở cách tiếp cận, tác giả sử dụng các phương pháp định lượng để chứng minh cho phần trình bày, giúp tớ hiểu thêm về cách thức sử dụng một số phương pháp định lượng.
Sách trình bày bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ những hạt mầm đầu tiên, mô tả lại tình hình của những ngày thực hiện việc đổi tiền, sự chuyển mình của hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 1 cấp sang hai cấp cho đến việc thành lập, sáp nhập các NHTM Việt Nam. Đây là bức tranh rõ ràng có hệ thống.
Sách còn cung cấp những nét cơ bản và lịch sử hình thành cua 4 loại hình đầu tư chính, gần gũi với người Việt nam: tiền đồng, vàng, đôla Mỹ và bất động sản. Ngoài ra còn có thị trường cổ phiếu, trái phiếu.
Có thể những thông tin trong sách không là thông tin mới với nhiều người đọc nhưng chưa có cuốn sách nào viết về thị trường ViệtNam có hệ thống như cuốn này. Có những cảm nhận khác nữa nhưng để mọi người tự đọc và có thêm cảm nhận, viết hết thì còn gì để đọc.

Kinh tế Việt Nam 2008 - Suy giảm và thách thức đổi mới



Tác giả : CEPR (Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách)
Số trang : 360 trang
Giá bìa : 62000 VNĐ
Khổ sách : 16 x 24 cm
Loại bìa : Mềm
Phát hành : Công ty CP Đại lý xuất bản VNN
Năm xuất bản : 2009

Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam của CEPR là các báo cáo được xuất bản hằng năm nhằm tổng kết những thành tựu và khó khăn, cơ hội và thách thức của nền kinh tế Việt Nam, đồng thời thảo luận có chọn lọc một số vấn đề kinh tế lớn ở mức chuyên sâu. Các vấn đề kinh tế đó được ngụ ý là những vấn đề quan trọng của năm đó và/hoặc có vai trò quan trọng trong những năm tới. Các vấn đề này được nhóm tác giả lựa chọn trên cơ sở tham khảo ý kiến của giới chuyên gia kinh tế trên một cơ sở rộng rãi và khoa học.

Hiện nay, ở Việt Nam đã có một số báo cáo kinh tế thường niên được các cơ quan có chuyên môn và thẩm quyền xuất bản. Đây là những báo cáo có giá trị tham khảo cao, với số liệu được cập nhật chi tiết và hệ thống. Tuy nhiên, các báo cáo này đều có khuynh hướng bao quát những vấn đề lớn của nền kinh tế trong một cấu trúc tương đối ổn định, mà không đi chuyên sâu vào từng chủ đề theo từng năm hay từng thời kỳ. Thêm vào đó, đa phần các báo cáo này đều do các cơ quan chức năng của chính phủ xây dựng, mà không phải do một tổ chức học thuật trong trường đại học xuất bản.

Do đó, Báo cáo Thường niên Kinh tế Việt Nam của CEPR được xây dựng với những đặc thù mới và khác biệt như sau:

1. Có cấu trúc khác với cấu trúc của các báo cáo truyền thống. Nội dung được tổ chức theo cơ cấu gồm một hoặc hai chương đầu tiên đánh giá tổng quan nền kinh tế thế giới và Việt Nam trong năm nghiên cứu. Tiếp đó, là các chương đi sâu vào từng chủ đề quan trọng của năm hoặc trong năm tới. Nội dung của mỗi chương mang tính độc lập tương đối, có đầy đủ các thành phần của một bài nghiên cứu hướng tới giải quyết vấn đề được nêu. Vì vậy, mỗi chương không chỉ đơn thuần mang tính thống kê hoặc phân tích hiện tại, mà còn cung cấp cơ sở lý luận, hệ thống hoá lý luận và kinh nghiệm lịch sử của vấn đề. Trên cơ sở đó, đưa ra những thảo luận và gợi ý chính sách trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Do các chủ đề được chọn sẽ thay đổi theo từng năm, tập hợp của Báo cáo qua các năm được kỳ vọng sẽ có ý nghĩa tham khảo mang tính hệ thống, và có ý nghĩa nhiều hơn một năm.

2. Cơ quan chuyên môn tổ chức thực hiện báo cáo, Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR), là một tổ chức nghiên cứu thuộc trường đại học, do đó, có ý thức duy trì những nhận định và thảo luận mang tính khách quan và độc lập nhất có thể (trong mối tương quan với các cơ quan chức năng của chính phủ hoặc cơ quan lập chính sách.) CEPR cũng không chịu sự chi phối của một hay một nhóm doanh nghiệp, hoặc các tổ chức quốc tế.

3. Nhóm tác giả được CEPR mời tham gia đều là các nhà kinh tế hoặc chuyên gia kinh tế có tư duy và tiếng nói độc lập. Thành phần nhóm tác giả có thể thay đổi theo từng năm, phụ thuộc vào các chủ đề chuyên sâu trong mỗi năm. Tuy nhiên, về tổng thể, toàn bộ các tác giả đều thuộc thế hệ các nhà kinh tế trẻ của Việt Nam, được đào tạo chuyên sâu tại các nước phát triển, sử dụng công cụ nghiên cứu hiện đại, giàu kinh nghiệm với thực tiễn kinh tế Việt Nam, và tâm huyết với quá trình phát triển của đất nước. Trong quá trình xây dựng Báo cáo, nhóm tác giả cũng thực hiện các buổi toạ đàm chuyên sâu để lấy ý kiến đóng góp và phản biện từ các nhà kinh tế hàng đầu trong và ngoài nước.

4. Ngoài mục đích cung cấp thông tin, tri thức cho người đọc là doanh nghiệp, tổ chức và giới nghiên cứu, Báo cáo còn được kỳ vọng như một kênh thảo luận và đối thoại chính sách hữu hiệu với Chính phủ và các cơ quan chức năng trong lĩnh vực quản lý kinh tế.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) mong muốn các tổ chức, cá nhân hay doanh nghiệp cùng tham gia đồng tổ chức việc thực hiện Báo cáo hằng năm, trên cơ sở đóng góp nguồn trí tuệ, tài chính và các nguồn lực cần thiết khác. Trong sản phẩm đầu tiên của loạt báo cáo này, Báo Sài Gòn Tiếp thị đã cùng CEPR hợp tác đồng tổ chức thực hiện dự án báo cáo cho năm 2009. Ấn phẩm mà độc giả đang cầm trên tay là kết quả của chương trình hợp tác đó.
Chúng tôi hy vọng rằng dự án Báo cáo Thường niên Kinh tế của CEPR sẽ lôi cuốn được nhiều tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong những năm tiếp theo, để Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR) có thể cho ra đời những báo cáo khoa học và kịp thời về nền kinh tế Việt Nam.



Hà Nội, ngày 27/04/2009
TS. Nguyễn Đức Thành
Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội



*****

Một số thông tin về các đơn vị tổ chức thực hiện Báo cáo

TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU KINH TẾ VÀ CHÍNH SÁCH (CEPR) được thành lập ngày 07/07/2008, là trung tâm nghiên cứu trực thuộc Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội. CEPR có tư cách pháp nhân, đặt trụ sở chính tại hiệu bộ Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội tại Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội.



Mục tiêu của CEPR là thực hiện các nghiên cứu kinh tế và chính sách nhằm giúp nâng cao chất lượng ra quyết định của các cơ quan hoạch định chính sách, doanh nghiệp và các nhóm lợi ích, dựa trên sự thấu hiểu bản chất của những vận động kinh tế và quá trình điều hành chính sách vĩ mô ở Việt Nam. Hoạt động chính của CEPR bao gồm phân tích định lượng các vấn đề của nền kinh tế và tác động của chúng tới các nhóm lợi ích; tổ chức các hội thảo đối thoại chính sách với mục đích tạo điều kiện cho các nhà hoạch định chính sách, lãnh đạo doanh nghiệp và tổ chức xã hội cùng gặp gỡ, trao đổi nhằm đề xuất giải pháp cho các vấn đề chính sách nổi cộm; đồng thời tổ chức các khóa đào tạo nâng cao về kinh tế, tài chính và phân tích chính sách.

Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (CEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Địa chỉ: Phòng 704, Nhà E4, 144 Đường Xuân Thủy, Quận Cầu Giấy, Hà Nội
Tel: (84) 4 3754 7506/ext 704 -714 / Fax: (84) 4 3704 9921
Email: Info@cepr.org.vn / Website: www.cepr.org.vn



BÁO SÀI GÒN TIẾP THỊ được thành lập ngày 15/04/1999, là cơ quan ngôn luận của Trung tâm Xúc tiến Thương mại và Đầu tư TP. Hồ Chí Minh, có trụ sở chính tại 25 Ngô Thời Nhiệm, Phường 6, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.

Báo Sài Gòn Tiếp thị
25 Ngô Thời Nhiệm, Phường 6, Quận 3, Tp. Hồ Chí Minh
Tel: (84) 8 3930 5473 - 39305474 / Fax: (08) 39305470
Email: sgtt@sgtt.com.vn / Website: www.sgtt.com.vn

*****



Các tác giả

TS. Phạm Thế Anh: tốt nghiệp TS kinh tế ở Anh, chuyên gia về kinh tế vĩ mô và dự báo, từng tham gia Nhóm Tư vấn Chính sách của Bộ Tài chính, giảng viên Đại học Kinh tế Quốc dân, kiêm Nghiên cứu viên cao cấp của CEPR.

TS. Từ Thuý Anh: tốt nghiệp TS kinh tế ở Mỹ, chuyên gia kinh tế quốc tế, giảng viên Đại học Ngoại thương Hà Nội, cộng tác viên của CEPR.

TS. Phạm Văn Hà: tốt nghiệp TS kinh tế tại Australia, chuyên gia kinh tế vĩ mô và mô hình hóa (CGE), hiện đang làm việc trong một dự án của UNDP, cộng tác viên của CEPR.

TS. Lê Hồng Giang: tốt nghiệp TS kinh tế ở Australia, chuyên gia kinh tế vĩ mô, tài chính quốc tế và mô hình hóa, nguyên giảng viên Chương trình Kinh tế Fulbright tại TP. Hồ Chí Minh, Giám đốc Quỹ Ngoại hối của công ty đầu tư Tactical Global Management, Australia.

Th.S Jago Penrose: tốt nghiệp ở Anh, nguyên là chuyên gia kinh tế của UNDP Việt Nam, chuyên gia về tổ chức doanh nghiệp và các ngành công nghiệp, nghiên cứu viên cao cấp của CEPR.

TS. Nguyễn Đức Thành: tốt nghiệp TS kinh tế ở Nhật, chuyên gia về kinh tế vĩ mô, từng tham gia Nhóm Tư vấn Chính sách của Bộ Tài chính, là giảng viên Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, Giám đốc kiêm Kinh tế trưởng của CEPR.

TS. Tô Trung Thành: tốt nghiệp TS kinh tế ở Anh, giảng viên Khoa Kinh tế học, Đại học Kinh tế Quốc dân, chuyên gia kinh tế vi mô và kinh tế lượng, các mô hình dự báo, cộng tác viên của CEPR.
Mục lục sách

Lời giới thiệu
Nhà tổ chức
Các tác giả
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục hình và đồ thị
Danh mục bảng
Danh mục hộp
Danh mục các chữ viết tắt
Tóm tắt

TS. LÊ HỒNG GIANG
Khủng hoảng tài chính và kinh tế thế giới 2008
Dẫn nhập
Khủng hoảng địa ốc
Khủng hoảng thanh khoản và hệ thống ngân hàng
Khủng hoảng giá dầu và các loại nguyên liệu thô
Suy thoái kinh tế
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục Chương 1

TS. PHẠM VĂN HÀ
Tổng quan kinh tế vĩ mô Việt Nam 2008
Dẫn nhập
Diễn biến kinh tế vĩ mô
Thị trường tài chính
Chính sách kinh tế vĩ mô
Một số thách thức kinh tế vĩ mô năm 2009
Tài liệu tham khảo

TS. PHẠM THẾ ANH
Quản lý tổng cầu trong môi trường bất ổn vĩ mô
Dẫn nhập
Diễn biến lạm phát năm 2008
Đánh giá chính sách tiền tệ
Ổn định kinh tế vĩ mô và hiệu quả của các chính sách quản lý tổng cầu
Kết luận
Tài liệu tham khảo

TS. TỪ THÚY ANH
Chính sách thương mại quốc tế trong bối cảnh suy thoái toàn cầu
Dẫn nhập
Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2008
Cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu: thương mại nội ngành hay liên ngành
Cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu
Chính sách thương mại
Kết luận
Tài liệu tham khảo

Phụ lục Chương 4

TS. NGUYỄN ĐỨC THÀNH
Biến động của thị trường chứng khoán dưới góc nhìn kinh tế vĩ mô
Dẫn nhập
Thị trường chứng khoán Việt Nam năm 2008
Những nền tảng được xây dựng trong giai đoạn 2006-2008
Ảnh hưởng của kỳ vọng tới trạng thái thị trường
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục Chương 5

TS. TÔ TRUNG THÀNH
Năng lực cạnh tranh ngành công nghiệp Việt Nam trong bối cảnh khủng khoảng kinh tế thế giới

Dẫn nhập
Chặng đua không cân sức – Việt Nam tụt hậu quá xa và dễ bị tổn thương
Chưa có một chiến lược xây dựng năng lực cạnh tranh hiệu quả, rõ ràng và nhất quán
Kết luận
Tài liệu tham khảo

THS. JAGO PENROSE
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam: Tăng cường thu hút hay tăng cường quản lý?
Dẫn nhập
Những đóng góp của FDI
Những hạn chế của FDI
Kết luận
Tài liệu tham khảo

TS. NGUYỄN ĐỨC THÀNH
Viễn cảnh kinh tế năm 2009 và hàm ý chính sách
Viễn cảnh kinh tế Việt Nam năm 2009
Khuyến nghị chính sách
Tài liệu tham khảo

NGUYỄN THỊ THANH HUYỀN
Phụ lục Báo cáo
Phụ lục 1: Phụ lục Thống kê
Phụ lục 2: Những chính sách vĩ mô nhằm bình ổn nền kinh tế trong năm 2008 và đầu 2009
Tài liệu tham khảo


=> Sách hay, đạt được những mục tiêu ban đầu của nhóm tác giả nêu ra. Cấu trúc khác lạ gồm nhiều chương độc lập của từng tác giả nghiên cứu. Nội dung cung cấp thông tin và thảo luận tình hinh kinh tế Việt nam và thế giới năm 2008 với những phân tính và đánh giá cụ thể, dễ hiểu.
Tuy nhiên, sách có sai sót về xử lý số liệu:
- Bảng 8.3, trang 270: có sai sót về đơn vị của bảng tính hoặc sai trong việc sử dụng dấu chấm (.) và dấu phẩy (,) khi phân định phần thập phân, phần nghìn. Điển hình: nếu hàng "Sai số và sai sót" là -100 tỷ USD là đúng và theo cách sử dụng dâu chấm (.) xuyên suốt trong bảng tính để phân định phần nghìn thì thâm hụt cán cân thanh toán trong cột cuối cùng sẽ là 2442 tỷ USD. Nhưng trong phần nhận xét của trang sau thì tác giả thể hiện ý định thâm hụt cán cân thanh toán trong kịch bản (cột cuối cùng) chỉ là 2,45 tỷ USD (gần hai tỷ rưỡi). Như vậy, nếu bảng tính đúng thì đơn vị bảng tính phải là triệu USD (thay vì tỷ USD). Ngoài ra, cũng trong bảng tính này, số liệu cán cân thương mại 2008 ước tính thì lại lẫn lộn giữa dấu chấm và dấu phẩy, sai sót này có thể do đánh máy.

Monday, November 2, 2009

Cẩm nang ngân hàng đầu tư - Mạc Quang Huy



Năm xuất bản:2009
Đơn vị xuất bản:Thống kê
Giá sách:250.000 VND
Số trang:725

Sau 9 năm hình thành và phát triển, thị trường chứng khoán Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ngày càng thể hiện vai trò là một kênh huy động vốn dài hạn không thể thiếu của nền kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng. Đặc biệt, từ năm 2006 đến nay, thị truờng chứng khoán đã có tốc độ tăng truởng rất mạnh, thu hút một lượng lớn các nhà đầu tư tham gia và tạo thành một hiện tượng kinh tế của Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới. Thực tế cho thấy, trong hoạt động của thị trường vốn ở các nước phát triển thì ngân hàng đầu tư là một trong những chủ thể quan trọng nhất.

Tại Việt Nam, tuy ngân hàng đầu tư còn là một khái niệm mới mẻ, song đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các hoạt động phôi thai theo hướng các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng ngân hàng đầu tư. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một định hướng đúng của nền kinh tế.

Để giúp đông đảo bạn đọc tìm hiểu về ngân hàng đầu tư, Nhà xuất bản Thống kê cho ra mắt bạn đọc cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” của tác giả Mạc Quang Huy, một chuyên gia giàu kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, đã nhiều năm công tác tại các ngân hàng đầu tư quốc tế lớn trên thế giới.

Với 22 chương, nội dung cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” không chỉ trình bày bản chất của ngân hàng đầu tư; cách thức tổ chức hoạt động; các nhóm sản phẩm và nghiệp vụ chính của ngân hàng đầu tư; cách thức quản lý hoạt động và rủi ro, mà còn đề cập đến một số khía cạnh quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính đương đại và ảnh hưởng của nó tới hiện tại cũng như tương lai phát triển của ngành ngân hàng đầu tư. Cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” dành một chương nghiên cứu về thực trạng thị trường vốn và tiềm năng phát triển ngành ngân hàng đầu tư tại Việt Nam. Cuốn cẩm nang này không trình bày quá sâu về từng loại nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng đầu tư.

Do nghiệp vụ ngân hàng đầu tư còn khá mới mẻ ở Việt Nam, nên khi biên soạn cuốn cẩm nang này, bằng kiến thức và kinh nghiệm vốn có của người trong cuộc, trên cơ sở tham khảo các nguồn tài liệu tin cậy, kết hợp với diễn biến thực tế của thị trường vốn Việt Nam, tác giả đã cố gắng trình bày cuốn cẩm nang theo một cách viết khoa học, đơn giản và dễ hiểu. Các thuật ngữ chuyên ngành cũng đã được Tác giả Việt hóa theo hướng giải thích bản chất hơn là sáng tác ra những thuật ngữ khó hiểu. Khi cần thiết sử dụng các khái niệm hay thuật ngữ mới, Tác giả cũng tham chiếu thuật ngữ tiếng Anh để bạn đọc tham khảo và tránh hiểu nhầm trong trường hợp nghĩa tiếng Việt chưa được rõ. Trong quá trình nghiên cứu, có thể bạn đọc sẽ gặp một số thuật ngữ mới chưa được giải thích ngay. Xin hãy kiên nhẫn vì các khái niệm đó sẽ được giải thích trong các phần sau của cuốn cẩm nang.

Cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” là tài liệu tham khảo hữu ích cho các đồng nghiệp, các nhà quản lý, các cán bộ, giảng viên và sinh viên chuyên ngành tài chính, ngân hàng (đặc biệt là khối đại học và nghiên cứu sau đại học), các giám đốc tài chính của các doanh nghiệp, các nhà báo chuyên mục kinh tế,…

“Cẩm nang ngân hàng đầu tư” xuất bản lần đầu ở Việt Nam khó tránh khỏi thiếu sót. Mong bạn đọc góp ý kiến, phê bình.



MỤC LỤC

PHẦN 1 - NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ

Chương 1: Tổng quan ngân hàng đầu tư

1.1- Khái niệm ngân hàng đầu tư

1.2- Các nghiệp vụ chính

1.3- Các dòng sản phẩm đầu tư

1.4- Các tên tuổi lớn trong ngành ngân hàng đầu tư

1.5- Quy mô hoạt động toàn cầu

1.6- Xu hướng phát triển của ngành

1.7- Tác động của khủng hoảng tài chính tới ngành ngân hàng đầu tư

1.8- Tiềm năng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam

1.9- Hãy cùng nhau cập nhật!

Chương 2: Ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

2.1- Ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại

2.2- Sự ra đời của ngân hàng tổng hợp

2.3- Các mô hình ngân hàng đầu tư

Chương 3: Tổ chức hoạt động ngân hàng đầu tư

3.1- Mô hình tổ chức của ngân hàng đầu tư

3.2- Cơ cấu tổ chức bộ phận kinh doanh

3.3- Cơ cấu tổ chức bộ phận quản trị rủi ro

3.4- Cơ cấu tổ chức bộ phận điều hành

3.5- Sự tương tác và tính độc lập giữa các khối kinh doanh

3.6- Tham khảo mô hình tổ chức của Morgan Stanley

3.7- Mô hình quản trị và điều hành của ngân hàng đầu tư

3.8- Môi trường hoạt động của ngân hàng đầu tư

Chương 4: Sản phẩm có thu nhập cố định

4.1- Giới thiệu chung

4.2- Chứng khoán nợ do chính phủ phát hành

4.3- Trái phiếu do các cơ quan chính phủ phát hành

4.4- Chứng khoán nợ chính quyền địa phương

4.5- Chứng khoán nợ doanh nghiệp

Chương 5: Đầu tư sản phẩm có thu nhập cố định

5.1- Rủi ro đầu tư chứng khoán nợ

5.2- Định mức tín nhiệm chứng khoán nợ

5.3- Một số khái niệm cơ bản trong phân tích chứng khoán nợ

5.4- Nghiệp vụ repo trái phiếu

5.5- Một số chiến thuật đầu tư chứng khoán nợ

Chương 6: Sản phẩm và đầu tư chứng khoán vốn

6.1- Khái niệm nghiệp vụ chứng khoán vốn

6.2- Cổ phiếu

6.3- Trái phiếu chuyển đổi

6.4- Quyền chọn mua, bán cổ phiếu

6.5- Chứng quyền cổ phiếu

6.6- Nghiệp vụ tài trợ cổ phiếu

6.7- Chiến thuật đầu tư cổ phiếu

6.8- Phân tích cơ bản trong đầu tư cổ phiếu

6.9- Phân tích kỹ thuật trong đầu tư cổ phiếu

Chương 7: Phát hành chứng khoán vốn và chứng khoán nợ

7.1- Nghiệp vụ ngân hàng đầu tư

7.2- Phát hành chứng khoán vốn

7.3- Bảo lãnh phát hành chứng khoán nợ

Chương 8: Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.1- Mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.2- Quy trình mua bán, sáp nhập doanh nghiệp

8.3- Soát xét đặc biệt

8.4- Phí tư vấn mua bán, sáp nhập

8.5- Các chiến thuật chống thôn tính thù nghịch

8.6- Tài trợ vốn cho các giao dịch mua bán, sáp nhập

8.7- Mua bán, sáp nhập các công ty đại chúng

8.8- Kế toán đối với hoạt động mua bán, sáp nhập

8.9- Định giá doanh nghiệp

Chương 9: Nghiệp vụ nghiên cứu

9.1- Giới thiệu chung

9.2- Các sản phẩm nghiên cứu

9.3- Thực tiễn hoạt động nghiên cứu

9.4- Phân phối sản phẩm nghiên cứu

9.5- Bảo mật thông tin

9.6- Mâu thuẫn lợi ích đối với hoạt động nghiên cứu

Chương 10: Nghiệp vụ quản lý đầu tư

10.1- Giới thiệu chung

10.2- Quỹ đầu tư

10.3- Quỹ tương hỗ

10.4- Quỹ niêm yết

10.5- Quỹ tín thác đầu tư bất động sản

10.6- Cơ chế tài chính của quỹ đầu tư

10.7- Quản lý gia sản

Chương 11: Nghiệp vụ ngân hàng bán buôn

11.1- Giới thiệu chung

11.2- Đầu tư vốn tư nhân

11.3- Đầu tư vốn mạo hiểm

11.4- Mua doanh nghiệp bằng vốn vay (LBO)

11.5- Cho vay đồng tài trợ và tài trợ dự án

11.6- Đầu tư bất động sản

Chương 12: Nghiệp vụ nhà môi giới chính

12.1- Giới thiệu chung

12.2- Quỹ đầu cơ (hedge fund)

12.3- Quy trình hoạt động của quỹ đầu cơ

12.4- Dịch vụ nhà môi giới chính

12.5- Quy trình ký quỹ áp dụng với quỹ đầu cơ

Chương 13: Nghiệp vụ chứng khoán hóa

13.1- Khái niệm

13.2- Quy mô chứng khoán hóa

13.3- Quy trình chứng khoán hóa

13.4- Lợi ích và chi phí

13.5- Các loại sản phẩm chứng khoán hóa

13.6- Trái phiếu có danh mục cho vay thế chấp mua nhà làm tài sản đảm bảo (MBS)

13.7- Trái phiếu có các danh mục rủi ro tín dụng làm tài sản đảm bảo (CDO)

13.8- Chứng khoán hóa tín dụng dưới chuẩn

Chương 14: Sản phẩm phái sinh (I)

14.1- Giới thiệu chung

14.2- Các nhóm hợp đồng phái sinh

14.3- Hợp đồng kỳ hạn ngoại tệ

14.4- Hợp đồng kỳ hạn lãi suất

14.5- Hợp đồng hoán đổi hối đoái

14.6- Hợp đồng hoán đổi tiền tệ

14.7- Hợp đồng hoán đổi lãi suất (IRS)

14.8- Hợp đồng hoán đổi cổ phiếu

Chương 15: Sản phẩm phái sinh (II)

15.1- Hợp đồng tương lai

15.2- Hợp đồng quyền chọn

15.3- Phái sinh hàng hóa

15.4- Phái sinh rủi ro tín dụng

15.5- Hợp đồng hoán đổi rủi ro tín dụng

15.6- Hợp đồng hoán đổi toàn bộ lợi ích (TRS)

15.7- Phái sinh thời tiết

Chương 16: Sáng tạo tài chính

16.1- Sáng tạo tài chính

16.2- Trái phiếu cơ cấu

16.3- Trái phiếu liên kết rủi ro lãi suất

16.4- Trái phiếu bảo vệ rủi ro lạm phát

16.5- Trái phiếu liên kết rủi ro ngoại hối

16.6- Trái phiếu liên kết rủi ro cổ phiếu

16.7- Trái phiếu liên kết rủi ro tín dụng

16.8- Trái phiếu lợi suất cao

Chương 17: Quản lý hoạt động và rủi ro trong ngân hàng đầu tư

17.1- Khung quản lý tài chính của ngân hàng đầu tư

17.2- Hệ thống chỉ số đánh giá hoạt động cơ bản

17.3- Quản lý kết quả kinh doanh

17.4- Khung quản lý nguồn vốn

17.5- Quản trị rủi ro

Chương 18: Khung pháp lý và đạo đức nghề nghiệp

18.1- Giới thiệu chung

18.2- Các quy định về phát hành chứng khoán trên thị trường sơ cấp

18.3- Các quy định về trao đổi chứng khoán trên thị trường thứ cấp

18.4- Các quy định về công ty đầu tư và nhà tư vấn đầu tư

18.5- Đạo luật Sarbanes-Oxley 2002

18.6- Đạo đức nghề nghiệp

Chương 19: Cơ hội nghề nghiệp tại ngân hàng đầu tư

19.1- Giới thiệu chung

19.2- Tiêu chuẩn tuyển dụng

19.3- Cơ hội nghề nghiệp tại khối ngân hàng đầu tư (IBD)

19.4- Cơ hội nghề nghiệp tại khối đầu tư

19.5- Cơ hội nghề nghiệp tại khối quản lý đầu tư

19.6- Cơ hội nghề nghiệp tại khối nghiên cứu

19.7- Cơ hội nghề nghiệp tại bộ phận điều hành

19.8- Các bằng cấp chuyên môn

19.9- Thu nhập tại ngân hàng đầu tư

Chương 20: Xu hướng phát triển ngành ngân hàng đầu tư

20.1- Tự do hóa tài chính

20.2- Quá trình toàn cầu hóa

20.3- Các sản phẩm mới

20.4- Phát triển công nghệ thông tin

20.5- Các quy định pháp lý mới

20.6- Ngân hàng đầu tư và cuộc khủng hoảng tài chính

20.7- Tương lai ngành ngân hàng đầu tư toàn cầu

PHẦN 2 - THAM KHẢO

Chương 21: Tiềm năng ngân hàng đầu tư tại Việt Nam

21.1- Thị trường vốn Việt Nam

21.2- Dòng sản phẩm có thu nhập cố định

21.3- Dòng sản phẩm chứng khoán vốn

21.4- Dòng sản phẩm phái sinh và sản phẩm cơ cấu

21.5- Dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư

21.6- Quản lý đầu tư

21.7- Nghiệp vụ nghiên cứu

21.8- Các ngân hàng đầu tư quốc tế tại Việt Nam

Chương 22: Niêm yết tại thị trường quốc tế

22.1- Giới thiệu chung

22.2- Cách thức niêm yết tại SGDCK quốc tế

22.3- Sở giao dịch chứng khoán Luân Đôn (LSE)

22.4- Sở giao dịch chứng khoán New York (NYSE)

22.5- Sở giao dịch chứng khoán Singapore (SGX)

PHẦN 3 - PHỤ LỤC

Phụ lục 1: Danh sách tài liệu tham khảo

Phụ lục 2: Danh sách các thuật ngữ viết tắt

Phụ lục 3: Danh sách một số thuật ngữ ngân hàng đầu tư (Anh - Việt)

Phụ lục 4: Danh sách một số báo chí cập nhật ngân hàng đầu tư

Phụ lục 5: Danh sách các DNNN lớn của Việt Nam thực hiện cổ phần hóa giai đoạn 2007-2010


Nhận xét của VNEconomy:

Ngân hàng đầu tư là một định chế tài chính quan trọng của thị trường vốn tại các quốc gia phát triển. Nghiệp vụ truyền thống và cơ bản nhất của ngân hàng đầu tư là thực hiện vai trò kết nối các chủ thể thiếu vốn và các chủ thể thừa vốn trên thị trường vốn thông qua việc tư vấn, bảo lãnh phát hành các loại chứng khoán (bao gồm chứng khoán vốn và chứng khoán nợ).

Ngày nay, ngân hàng đầu tư tham gia vào nhiều loại hình nghiệp vụ đa dạng khác nhau trên thị trường vốn, bao gồm dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư, môi giới, đầu tư, nghiên cứu, quản lý tài sản, ngân hàng bán buôn và các dịch vụ khác. Dịch vụ tư vấn ngân hàng đầu tư bao gồm tư vấn, bảo lãnh phát hành chứng khoán cũng như tư vấn mua bán, sáp nhập doanh nghiệp (M&A).

Tại Việt Nam, tuy ngân hàng đầu tư còn là một khái niệm mới mẻ, song đã xuất hiện một số công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ với các hoạt động phôi thai theo hướng các nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư. Đồng thời, một số ngân hàng thương mại lớn cũng đang trong quá trình chuyển đổi sang mô hình tập đoàn tài chính, trong đó có chú trọng đẩy mạnh phát triển mảng ngân hàng đầu tư. Đây là sự phát triển tất yếu mà các nước phát triển đã trải qua và là một định hướng đúng của nền kinh tế.

Mặc dù vậy, các tài liệu và thông tin xuất bản nhằm giới thiệu, phân tích đầy đủ và khoa học về các nghiệp vụ, các dòng sản phẩm, mô hình quản lý và hoạt động cũng như kinh nghiệm trên thế giới trong lĩnh vực ngân hàng đầu tư hiện còn khá hạn chế tại Việt Nam.

Để đáp ứng nhu cầu thông tin của bạn đọc tìm hiểu về lĩnh vực này, Nhà xuất bản Thống kê vừa ra mắt bạn đọc cuốn “Cẩm nang ngân hàng đầu tư” của tác giả Mạc Quang Huy, một chuyên gia nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng đã nhiều năm công tác tại các ngân hàng đầu tư quốc tế lớn trên thế giới, là cộng tác viên quen thuộc với nhiều bài viết sâu sắc trên VnEconomy.

Cuốn sách 725 trang, được chia thành 22 chương, trình bày tương đối toàn diện mỗi lĩnh vực sản phẩm, nghiệp vụ và quản lý của ngân hàng đầu tư. Tác giả cũng đề cập đến một số khía cạnh quan trọng của cuộc khủng hoảng tài chính đương đại và ảnh hưởng của nó tới hiện tại cũng như tương lai phát triển của ngành ngân hàng đầu tư.

Các câu hỏi như nguyên nhân, gốc rễ và cách thức hình thành của một cuộc khủng hoảng tài chính là gì, vì sao các ngân hàng đầu tư thất bại nặng nề trong cuộc khủng hoảng tài chính, vì sao các ngân hàng đầu tư độc lập còn lại trên Phố Wall là Goldman Sachs va Morgan Stanley phải xin chuyển sàng mô hình ngân hàng đầu tư tổng hợp (universal bank) ngay sau khi Lehman Brothers sụp đổ (9/2008), xu hướng của ngành ngân hàng đầu tư trong tương lai như thế nào… được lần lượt trả lời trong cuốn sách này.

Bên cạnh đó, tác giả cũng dành một chương nghiên cứu về thực trạng thị trường vốn và tiềm năng phát triển ngành ngân hàng đầu tư tại Việt Nam...

Theo đánh giá của giới chuyên môn tại Việt Nam, đây là một tài liệu tham khảo hữu ích đối với các cán bộ quản lý và nhân viên chuyên nghiệp trong ngành tài chính Việt Nam, bao gồm các cơ quan chức năng, sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, các nhà đầu tư có tổ chức, các giám đốc tài chính doanh nghiệp muốn tìm hiểu về hoạt động và dịch vụ ngân hàng đầu tư quốc tế.

Cuốn sách cũng được viết như một cuốn sách giáo khoa cho các giảng viên, sinh viên khối kinh tế, tài chính, ngân hàng (khối đại học và sau đại học) bao gồm các trung tâm đào tạo chứng khoán trong nước, muốn tiếp cận các nghiệp vụ tài chính hiện đại. Các phóng viên, biên tập viên, nhà báo chuyên ngành tài chính và chứng khoán cũng sẽ tìm thấy những thông tin bổ ích từ cuốn sách này.

*Minh Đức

=> Đây là lần đầu tớ đánh giá về một cuốn sách có thể được liệt kê vào thể loại sách "chuyên ngành" hay "nghiệp vụ", vì vốn dĩ rất ngại nêu nhận xét các thể loại này, dễ gây nhiều phản ứng do kiến thức của bản thân không sâu rộng và không thể so sánh với các tác giả của thể loại này nên việc đánh giá hay nhận xét là vấn đề tớ không thích. Có điều, do cuốn này được tung hô trước khi phát hành nhiều quá nên sau khi đọc xong quyết định viết về nó.

Cuốn sách này được đầu tư một cách khá kỹ lưỡng. Trước hết là khâu giới thiệu, rất nhiều website tài chính và bài viết đề cập, đề cao, khen ngợi cuốn sách này. Rồi đến việc phát hành thì cũng chỉ chọn 2 nhà sách được phép bán. Rồi ngày phát hành được ấn định nhưng đến đó, tớ không thấy fahasa SG bày bán, phải hơn 2 tháng sau thì sách mới có trên kệ, chẳng hiểu nguyên nhân vì sao...vào lúc đó, các quầy sách hay bán chiết khấu cũng chưa thấy xuất hiện... Mãi đến cách đây 2 tháng (tháng 9/2009) thì mới được bán rộng rãi ở nhiều nhà sách..Phải có lời khen ngợi cho đội sale của sách này. Sách được trình bày bìa và giấy khá đẹp và độ dày bằng cuốn từ điển (nội dung cũng gần như từ điển).

Về mặt nội dung thì cuốn sách đáp ứng được mục đích ban đầu theo ý tác giả (tớ nghĩ vậy!) đó là trình bày bản chất của ngân hàng đầu tư, cách thức tổ chức hoạt động, các nhóm sản phẩm và nghiệp vụ chính của ngân hàng đầu tư, cách thức quản lý haọt động và rủi ro và cuối cùng là đáp ứng được mục đích: không trình bày quá sâu về từng loại nghiệp vụ cụ thể của ngân hàng đầu tư. Chính vì các tiêu chí đề ra như vậy, khi đọc cuốn sách này, những người đã từng đọc, học, nghiên cứu về các nghiệp vụ nêu trong sách bằng tiếng anh thì cuốn sách như một bản dịch tốt để hệ thống lại các khái niệm, kiến thức tổng quát của các nghiệp vụ; còn đối với những người mới tiếp cận phân tích tài chính thì sách này giúp cho người đọc có cái nhìn tổng quát các nghiệp vụ và hiểu hơn về khái niệm. Tôi thấy về mặt nghiệp vụ thì đa phần sách được trình bày khá sát theo hệ thống của chương trình CFA về mặt khái niệm các nghiệp vụ (chưa đọc 2 cuốn "The business of Investment Banking" và "Vault Career Guide to investment banking" nên không rõ nội dung của sách này có theo 2 cuốn vừa nói không nữa!). Và một cái hay của sách này nữa là thường có những liên hệ đến tình hình của nghiệp vụ đó ở Việt Nam khiến cho người đọc trong nước có cảm giác gần gũi chứ không đơn thuần chỉ tập hợp và dịch từ các sách nước ngoài.

Tuy nhiên, tớ chỉ có nhận xét là khi sách đề cập về chương trình CFA thì chỉ ghi là “theo CFA” hoặc là “của CFA” nhưng thiết nghĩ nếu đúng thì phải là “theo Hiệp hội CFA” hoặc “theo/của chương trình CFA” (standard VII B of Professional conduct). Có thể tác giả không là hội viên nên việc đề cập như vậy không là vấn đề.

Dưới đây là một số tài liệu tham khảo trích theo mục lục của tác giá:
1. K. Thomas Lia. The business of Investment Banking, 2005. John Wiley & Son, Inc
2. Vault Career Guide to investment banking, 2005 (download)
3. Harold Bierman JR. Private Equity, 2003. John Wiley & Son, Inc (download)
4. Philippe Jorion. Financial Risk Manager Handbook. John Wiley & Son, Inc (download)
11. Mergers and Acquisitions, 2005. Hiệp hội ngân hàng anh quốc
12. Wealth Management in Switzerland, 2007. Hiệp hội ngân hàng thụy sỹ
16. Vietnam capital market roadmap, 2003. ADB
17. Asia pacific M&A Bulletin (2007, 2008). PWC Việt Nam (download)