Trong tác phẩm này, Trần Trọng Kim đã có những nhận xét thẳng thắn về giai đoạn 1942-1949, với những đánh giá mang tính cá nhân thì người đọc sẽ có thêm góc nhìn về những tổ chức cách mạng trong giai đoạn đó.
Bản thân tôi thích chương 6 "Chính phủ Việt Nam và tình thế trong nước" và Chương 7 "Tôn chỉ và hành động của Cộng sản Đảng" miêu tả cụ thể và sâu sắc.
Một số đoạn trích mình thích như sau:
"Vậy
mà ở xa nghe nói, tưởng là các ông ấy có tổ chức, có thế lực, kỳ thực chẳng có
gì đáng kể. Cũng như là sau tôi thấy những người cách mệnh Việt Nam ta ở bên
Tàu, nghe tuyên truyền thì tưởng là họ có cơ sở chắc chắn, lúc biết rõ sự thực,
thật là buồn. Tôi kể câu chuyện ra đây cốt để người ta biết rõ sự thực, đừng có
nghe nhảm tin lầm. Mình là người một nước hèn yếu, ra ngoài không biết nương tựa
vào đâu, thành ra thường hay bị cực khổ mà không làm được việc gì ra trò "
"Người
Xiêm cùng một nòi giống với người Tàu, tiếng nói cũng hơi giống nhau. Vì người
Xiêm và người Tàu xưa kia ở mé tây tỉnh Vân Nam và mé đông Tây Tạng, đã từng lập
thành nước Nam Chiếu vào khoảng đệ thất đệ bát thế kỷ. Sau vì người Tàu xâm
lăng mới theo sông Cửu Long xuống miền nam, lập ra các bộ lạc ở xứ Tàu và nước
Xiêm ngày nay. Tính người Xiêm cũng gần như người Tàu, đàn ông ưa hoạt động lắm,
làm gì được đủ ăn rồi thì thích chơi bời, cờ bạc chớ ít cố gắng làm lụng. Gần hầu
hết dân trong nước theo Phật giáo tiểu thặng như Cao Miên và Tàu"
"
Việc binh bị trong nước là việc quan trọng đến vận mạng cả nước, mà lúc ấy
quân lính và súng ống không có. kinh đô Huế có tất cả hơn một trăm lính bảo an,
tức lính khố xanh cũ, và sáu bảy chục khẩu súng cũ đạn cũ, bắn mười phát thì
năm sáu phát không nổ.
Các tỉnh cũng vậy, mỗi tỉnh có độ 50 lính bảo an, các phủ huyện thì độ chừng
vài chục người. Việc phòng bị do quân Nhật đảm nhiệm hết. Vì lẽ đó và các lẽ
khác nữa mà lúc đầu chúng tôi không đặt bộ quốc phòng. Một là trong khi quân
Nhật đang đóng ở trong nước, nếu mình đặt bộ quốc phòng thì chỉ có danh không
có thực, và người Nhật có thể lợi dụng bắt người mình đi đánh giặc với họ. Hai
là trước khi mình có đủ binh lính và binh khí, ta hãy nên gây cái tinh thần
binh bị, thì rồi quân đội mình mới có khí thế.
Nhiều người ở ngoài không hiểu ý chúng tôi buông
lời bài xích rằng sao có chính phủ mà không có bộ quốc phòng. Học không biết rõ
tình thế lúc bấy giờ bắt chúng tôi phải trù tính mọi việc cho chu đáo, tránh
làm những việc hớ hênh có hại cho dân cho nước. Không có bộ quốc phòng, nhưng lại
có bộ thanh niên, lập ra các đạo thanh niên tiền tuyến, để một ngày kia thành
những đội quân có tinh thần mạnh mẽ. "
"Lá cờ vàng là từ xưa nước ta vẫn dùng. Trong sách
Quốc Sử Diễn Ca
nói khi bà Triệu Ẩu nổi lên đánh quân Tàu, đã dùng lá cờ ấy khởi nghĩa, nên có
câu rằng “Ðầu voi phất ngọn cờ vàng”. Vậy lấy sắc cờ vàng là hợp với cái ý cách
mệnh của tổ quốc, lấy dấu hiệu quẻ ly là vì trong lối chữ tối cổ của ta có tám
chữ viết bằng vạch liền (dương) và những vạch đứt (âm) để chỉ tám quẻ, chỉ bốn
phương chính và bốn phương bàng, nói ở trong kinh dịch, mà quẻ ly chủ phương
nam. Chữ LY còn có nghĩa là lửa, là văn minh, là ánh sáng phóng ra bốn phương.
Lấy sắc vàng là hợp với lịch sử, lấy quẻ ly là hợp với vị trí nước nhà lại
có nghĩa chỉ một nước văn hiến như ta thường tự xưng. Như thế là lá cờ vàng quẻ
ly có đủ các ý nghĩa.
Song có người nói: cờ quẻ ly là một điềm xấu cho nên thất bại, vì ly là lìa.
Ly là lìa là một nghĩa khác chứ không phải nghĩa chữ ly là quẻ. Và việc làm của
một chính phủ là cốt ở cái nghĩa lý, chứ không phải sự tin nhảm vô ý thức.
Việc thất bại là vì tình thế chứ không phải vì
lá cờ. Giả sử dùng lá cờ khác mà trong hoàn cảnh lúc ấy có thể thay đổi được gì
không ?"
"Nguyên từ khoảng 1925-1926 trở đi, ở Việt Nam đã có người nói đến chủ nghĩa
cộng sản. Lúc ấy có một thiếu niên tên Nguyễn Tất Thành, sinh năm 1894, con nhà
thi lễ, quê làng Kim Liên huyện Nam Ðàn thuộc tỉnh Nghệ An. Trước học trường
trung học ở Huế rồi bỏ sang Pháp theo Xã Hội Ðảng, lấy tên là Nguyễn Ái Quốc.
Sau lại sang Nga vào đảng Cộng Sản, đến khoảng 1929-1930 ông trở về gây phong
trào cộng sản cách mệnh ở vùng Nghệ Tĩnh. Lúc ấy chính phủ bảo hộ Pháp dùng võ
lực đàn áp một cách tàn nhẫn. Việc ấy thất bại, đảng cộng sản tuy phải im hơi
lặng tiếng, nhưng vẫn ngấm ngầm tuyên truyền trong đám dân gian và thợ thuyền,
theo đúng phương pháp đã định ở Mạc Tư Khoa bên Nga.
Ông Nguyễn Ái Quốc sang Quảng Châu và phao tin rằng ông đã chết trong ngục
khi bị bắt ở Hương Cảng, và lại đổi tên là Lý Thụy rồi chen lẫn với những người
cách mệnh Việt Nam ở bên Tàu. Vào khoảng 1936-1937 ông lập ra đảng cộng sản gọi
là Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh, gọi tắt là Việt Minh, và cho người về hoạt động
ở miền thượng du bắc việt. Vì vậy thuở ấy người ta mới biết là có đảng Việt
Minh.
Ðến cuối năm 1940 nhân khi quân Nhật Bản ở Quảng Tây đánh vào Lạng Sơn,
những người như bọn ông Trần Trung Lập trong đảng Việt Nam Quang Phục Hội của
ông Phan Bội Châu lập ra khi trước, theo quân Nhật về đánh quân Pháp hồi tháng
chín năm 1940. Sau vì người Nhật ký hiệp ước với người Pháp rồi trả lại thành
Lạng Sơn cho người Pháp, ông Trần Trung Lập bị quân Pháp bắt được đem xử tử.
Toán quân phục quốc vỡ tan, có một số độ 700 người, trong số ấy có độ 40 nữ
đảng viên theo ông Hoàng Lương chạy sang Tàu.
Vậy các đảng của người Việt Nam ở bên Tàu vào khoảng năm 1942 trở đi, có
Việt Nam Phục Quốc Ðồng Minh Hội, Việt Nam Quốc Dân Ðảng và những người cách
mệnh không có đảng phái v…v…
Thuở ấy, chính phủ Trung Hoa thấy những đảng viên Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh
Hội hành động theo chủ nghĩa cộng sản, bèn xuống lệnh giải tán đảng ấy và bắt
Lý Thụy giam trong hang đá ở Liễu Châu, ủy cho tướng Trương Phát Khuê chủ
trương việc tập hợp các đảng phái cách mệnh Việt Nam lập thành một đảng để hành
động cho có hệ thống. Trương Phát Khuê giao cho ông Hoàng Lương trù liệu việc
ấy.
Ngày mùng 1 tháng mười năm 1942, ông Hoàng Lương chiêu tập ở Liễu Châu những
người trong các đảng phái hay không có đảng phái để lập ra một đảng duy nhất
gọi là Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội, gồm đại biểu các đảng sau đây:
- Việt Nam
Phục Quốc Ðồng Minh Hội, có Hoàng Lương và Hồ Học Lãm làm đại biểu.
- Việt Nam
Quốc Dân Ðảng, có Vũ Hồng Khanh và Nghiêm Kế Tổ làm đại biểu.
- Vô đảng
phái, có Trương Bội Công, Nguyễn Hải Thần, Trần Báo, Trương Trung Phụng
làm đại biểu.
Các đại biểu trước hết lập thành một ủy ban trừ bị do Nguyễn Hải Thần chủ
tọa để xếp đặt mọi việc.
Lúc ấy Lý Thụy còn phải giam, ủy ban trừ bị đứng
ra bảo đảm với chính phủ Trung Hoa, xin lĩnh ra để cùng làm việc. Theo lời một
người Việt Nam có mặt trong hội nghị ấy đã nói: Lý Thụy có kết nghĩa với một
người cộng sản Tàu tên là Hầu Chí Minh, làm chức thiếu tướng trong quân đội thuộc
quyền chỉ huy của Trương Phát Khuê. Khi ở nhà ngục ra, ông muốn tỏ tình thân ái
với bạn mới lấy tên là Hồ Chí Minh. Khi ông được tha ra, liền tuyên thệ xin hết
lòng trung thành với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh Hội mà làm việc
Ðảng Việt Minh cộng sản có tổ chức rất chu mật và theo đúng phương pháp khoa
học. Trong khi ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu để chờ đợi thời cơ, ở trong nước đâu
đâu cũng có cán bộ, ngấm ngầm hành động và tuyên truyền rất khôn khéo. Họ lợi
dụng lòng ái quốc của dân chúng mà tuyên truyền Việt Minh không phải là đảng
cộng sản, chỉ là một mặt trận gồm tất cả các đảng phái lấy lại độc lập cho nước
nhà, vậy nên từ bắc chí nam đâu cũng có người theo.
Cách hành động của họ thì bất cứ công sở hay tư
sở, hễ đâu có một tổ chức làm việc là có người của họ chen lấn vào, hoặc để
tuyên truyền, hoặc để hoạt động theo chủ nghĩa họ. Ðảng viên cộng sản lại biết
giữ kỷ luật rất nghiêm và rất chịu khó làm việc. Xem như Hội Truyền Bá Quốc Ngữ
khi mới thành lập ở Hà Nội là có ngay những người cộng sản vào hội rồi, và những
người nhận việc đi dạy học rất chăm, không quản công lao gì cả. Một tổ chức có
kỷ luật và chịu khó làm việc như thế, làm gì mà không mạnh
Trong
khi ấy ông Hồ Chí Minh ở bên Tàu vẫn cộng tác với Việt Nam Cách Mệnh Ðồng Minh
Hội, không có tranh dành địa vị như những người khác, cứ làm việc của một đảng
viên có kỷ luật. Cái khôn khéo của ông lúc ấy không để lộ cho ai biết ông là
lãnh tụ đảng cộng sản Ðông Dương "
"Người
cộng sản, khi đã hành động, hay dùng đến chữ giải phóng. Theo việc làm của họ,
tôi vẫn chưa hiểu rõ nghĩa hai chữ ấy. Có phải trước kia có cái cũi giam người,
bây giờ họ đem cái cũi kiểu mới đến bên cạnh rồi bảo người ta chạy sang cái cũi
mới ấy, thế gọi là giải phóng không? Nếu cái nghĩa giải phóng là thế, thì cũi
cũ hay cũi mới cũng vẫn là cái cũi, chứ có hơn gì?
Cứ như ý tôi, thì giải phóng phải theo đúng cái lẽ công bằng, làm cho người
ta được ung dung thư thái, được hành động trong một cái khuôn khổ rộng rãi, ai
nấy biết trọng quyền lợi của mọi người theo pháp luật đã định, không bị đàn áp
và lừa dối, không bị bắt bớ và giết hại một cách ám muội, oan ức.
Ðàng này tôi thấy chế độ các nước cộng sản giống nhau như in cái chế độ
chuyên chế thuở xưa. Người nào nói xấu hay công kích những người cầm quyền của
đảng là phải tội bị đày, bị giết. Ai không sốt sắng theo mình thì bị tình nghi,
phải chịu mọi điều phiền khổ. Nhân dân trong nước vẫn bị đàn áp lầm than khổ
sở, riêng có một số ít người có địa vị to lớn là được sung sướng. Như thế thì
giải phóng ở đâủ Giải phóng gì mà cả chính thể một nước phải nương cậy ở những
đội trinh thám để đi rình mò và tố cáo hết thảy mọi người. Hễ ai vô ý nói lỡ
một câu là bị tình nghi có khi bị bắt, bị đày v…v… thành ra nhân dân trong xã
hội ấy lúc nào cũng nơm nớp lo sợ, không biết ai là bạn là thù, mất hẳn sinh
thú ở đời, thật trái với lời nói thiên đường ở cõi trần.
Trong những lời tuyên truyền của Việt Minh, thấy luôn luôn nói nào là hạnh
phúc, nào là tự do, bình đẳng, mà sự thật thì trái ngược tất cả. Những lối họ
dùng là nói dối, đánh lừa cướp bóc, giết hại tàn phá, không kiêng dè gì cả,
miễn làm cho người ta mắc lừa hay sợ mà theo mình là được. Xem như lúc đầu Việt
Minh tuyên truyền rầm rĩ lên rằng: “Nước Việt Nam đã được các nước Ðồng Minh
cho hoàn toàn độc lập, và dân được tha hết các thứ thuế”. Thôi thì chỗ dân gian
nghe nói thế chạy ùa ùa theo. Sau chẳng thấy độc lập đâu cả và dân lại phải
đóng góp nặng hơn trước. Khi Việt Minh đã nắm quyền binh rồi, lại định các
ngạch thuế, có người hỏi họ: “Sao trước kia các ông bảo tha hết các thứ thuế
rồi kia mà?” Họ trả lời: “Ấy trước nói tha thuế, nhưng bây giờ chính phủ cần có
thuế để làm mọi việc”. Nói thế thì uy tín của chính phủ để đâủ
Cái thủ đoạn của Việt Minh là dùng mọi cách bạo
ngược, tàn nhẫn, giả dối, lừa đảo để cho được việc trong một lúc. Ngay như họ đối
với Việt Nam Quốc dân đảng nay nói là đoàn kết, mai nói đoàn kết, nhưng họ vẫn
đánh úp, vẫn bao vây cho tuyệt lương thực. Khi họ đánh được thì giết phá, đánh
không được thì lại đoàn kết, rồi cách ngày lại đánh phá. Dân tình thấy thế thật
là ngao ngán chán nản, nhưng chỉ ngấm ngầm trong bụng mà không dám nói ra. Nên
dân gian thường có câu “nói như Vẹm”. Vẹm là do hai chữ Việt Minh viết tắt V M,
đọc nhanh mà thành ra. " >>
đoạn này trong cuốn tái bản năm 2017 bị cắt. Vậy mà bản 2017 cũng bị thu hồi