Sách mô tả cách hoạt động của ruột trong chúng ta, bao gồm 3 phần
Phần 1 là các cảm nhận về ruột. Phần này bắt đầu bằng cách giải thích cách chúng ta đi ngoài, rồi sau đó chuyển đến việc tiếp nhận thức ăn ban đầu tư miệng với 4 lỗ tiết nước bọt, sau đó thức ăn đi qua thực quản, xuống đến dạ dày để nhào nặn chúng. Sau khi được nhào nặn thì thức ăn được tiêu hoá qua ruột non (dài khoảng 6m) với hàng tỷ nếp gấp. Qua khỏi ruột non thì chuyển đến ruột già, và có chào hỏi ruột thừa. Kết thúc phần này là 7 phân loại đối với phân.
Phần này giúp hiểu thêm về sỏi amidan, tuyến nước bọt. thứ tự xử lý thức ăn.
Phần 2 là các hệ thần kinh của ruột. Bắt đầu từ mắt, mũi, miệng, hầu, thực quản, dạ dày, ruột non, ruột già. Tiếp đó phần này cũng giải thích cơ chế nôn, trào ngược, táo bón. Đến đây là 150 trang và kết thúc những gì dễ hiểu, quen thuộc mà người bình thường (như tôi) có thể hiểu.
Đoạn cuối của chương này nói về não và ruột. Phần 3 nói về các loại vi khuẩn rất khó đọc tên. Có thể mọi người sẽ quen với 2 cái tên: Helicobacter Pylori (hay gọi là HP, trang 253) và thuốc kháng sinh (trang 295). Còn lại thì rất khó hiểu và nuốt trôi đoạn cuối trước và phần 3 này.
Ban đầu, mình tìm hiểu vì lời giới thiệu cuốn sách dễ đọc gần gủi nói về hoạt động của ruột và điều này đúng với 150 trang đầu sách với những giải thích ngôn từ đơn giản. Còn đoạn sau khi toàn thuật ngữ y khoa, không quen thuộc.
Một số điểm ghi nhớ là:
Nôn do say tàu xe do não nhìn nhận bất tương ứng giữa mắt và tai, xem nó là ngộ độc tiêu hoá. cảm xúc mạnh, căng thẳng do xúc động, áp lực, lo âu tạo nên hóc môn giải phòng corticotropin phản ứng với stress tên CRF (corticotropin releasesing factor), đủ dùng để buổi sáng đối mặt thử thách trong ngày. CRF ko chỉ tạo ra bởi não mà còn bởi tế bào dạ dày ruột. Nôn nhằm tiết kiệm năng lượng để giải quyết vấn đề khác. Cơ chế thuốc chống nôn tác dụng theo nhiều cách khác nhau: (1) ngăn chặn thụ thể ở trung tâm nôn của não, tác dụng như gừng tươi; (2) tê liệt dây thần kinh dạ dày, ruột; (3)ức chế tín hiệu báo động (giống dị ứng) là chất dẫn truyền tín hiệu báo động histamine, loại này mạnh nhất và gây ra buồn ngủ. Phương pháp cuối là P6
Táo bón do mất liên kết giữa dây thần kinh và cơ ruột. Bí quyết xử lý là: quân bình nước bằng thuốc nhuận tràng chứa đường, muối, chuỗi phân tử ngắn giữ nước. Đường nhuận tràng phổ biến là lactulose , tạo thành từ đường của sửa UHT, đường nhuận tràng ko làm từ sữa là sorbitol E420 (mận, lê, táo) do cơ thể ít hấp thu sorbitol vào máu . Chuỗi phân tử ngắn PEG (PG-3350).
Khi cảm lạnh, xét nghiệm procalcitonin để biết triệu chứng do vi khuẩn hay vi rút tạo ra. Cảm lạnh thông thường do vi rút thì không dùng kháng sinh. Cơ chế thuốc kháng sinh là đục lỗ vi khuẩn, đầu độc hay ức chế sinh sản của vi khuẩn. Vi khuẩn có cơ chế phát triển chống lại thuốc bằng cách trang bị các bơm nhỏ trên thành tế bào để bơm thuốc kháng sinh ra ngoài, hoặc nguỵ trang để thuốc kháng sinh không nhận ra bề mặt hoặc chúng tạo ra công cụ phân chia, cắt thuốc kháng sinh thành từng miếng nhỏ vô dụng. Dùng thuốc kháng sinh đủ ngày để những chiến binh kháng cự kém sẽ buông xuôi, nếu ko sẽ tạo ra chiến binh kháng kháng sinh và hậu quả khôn lường.
Cho nên với mình sách này cũng bình thường, không đáng ca ngợi quá, thích thì đọc 150 trang đầu rồi nghỉ.
Sau cuốn này mình sẽ đọc tiếp cuốn Gan ơi là Gan