Saturday, December 20, 2008

Chương trình xem ebooks

Microsoft Reader : xem các ebooks định dạng *.lit (download)
LizardTech : xem các ebooks định dạng *.djvu (download)
Mobipocket Reader : xem các ebooks định dạng *.prc (download)

Doc sach nhu mot nghe thuat - How to read a book



Tác giả: Mortimer J.Adler. - Dịch giả: Hải Nhi.
Nhà xuất bản: Nxb Lao động Xã hội

Đọc sách như một nghệ thuật, ngay từ lần xuất bản đầu tiên năm 1940, đã được đánh giá là cuốn sách hướng dẫn đọc hiểu lý thú và hiệu quả nhất dành cho độc giả phổ thông. Cuốn sách đã nhanh chóng trở thành một tác phẩm kinh điển về cách đọc sách thông minh.

Đọc sách như một nghệ thuật giúp bạn khám phá và lĩnh hội các cấp độ đọc khác nhau, từ đọc sơ cấp, đọc lướt có hệ thống đến đọc kiểm soát và đọc siêu tốc. Bạn có thể áp dụng các cấp độ này cho việc phân loại, chụp X-quang hay phê bình sách, tuỳ theo nhu cầu và mục đích của mình. Nhờ các kỹ năng đọc được hệ thống ở đây, bạn sẽ biết cách tiếp cận và nắm bắt tất cả các loại văn bản, dù đó là sách thực hành, khoa học, toán học, triết học, lịch sử hay các tác phẩm văn học.

Đọc sách như một nghệ thuật, hơn hết, thúc đẩy ta trở thành độc giả say mê. Cuốn sách là người bạn đường không thể thiếu của mỗi người trên hành trình đối thoại để học hỏi, khám phá, tu thân và trưởng thành, như Decartes đã nói: "Đọc sách là được trò chuyện với những người thành đạt nhất của các thế kỷ đã qua".

Mục lục:

Lời nói đầu

Phần 1: Các phương diện đọc sách

Đọc sách và nghệ thuật đọc sách

Các cấp độ đọc

Cấp độ đọc đầu tiên - Đọc sơ cấp

Cấp độ thứ hai - Đọc kiểm soát

Cách trở thành một độc giả yêu cầu cao

Phần 2: cấp độ đọc thứ ba - Đọc phân tích

Phân loại một cuốn sách

"Chụp X-quang" một cuốn sách

Thống nhất các thuật ngữ với tác giả

Xác định thông điệp của tác giả

Đưa ra những lời phê bình hợp lý

Đồng ý hay bất đồng với tác giả

Những phương tiện giúp việc đọc

Phần 3: Tiếp cận những chủ đề sách khác nhau

Cách đọc sách thực hành

Cách đọc tác phẩm văn học giả tưởng

Những gợi ý khi đọc truyện, kịch và thơ

Các đọc sách lịch sử

Cách đọc sách khoa học và sách toán

Cách đọc sách triết học

Cách đọc sách khoa học xã hội

Phần 4: Mục đích cao nhất của việc đọc sách

Cấp độ đọc thứ tư Đọc đồng chủ đề

Đọc sách và sự phát triển trí tuệ.

=> Cuốn này đọc cũng được, nội dung gần với cuốn "Phương pháp ghi nhận". Cũng tham khảo được nhiều ý hiihi..

free download (bản tiếng việt, định dạng prc)

Sử dụng Mobipocket reader để xem file prc. Download Mobipocket reader

Sunday, November 23, 2008

Những Đỉnh Cao Chỉ Huy - Cuộc Chiến Vì Nền Kinh Tế Thế Giới (THe commanding heights - The battle for the world economy) - Daniel A. Yergin




Tác Giả: Joseph Stanislaw - Daniel Yergin
Nhà Xuất Bản: NXB Tri Thức
Số Trang: 832
Giá Bìa: 110,000VNĐ
(discount 30% tại các quầy sách KimDung, Sach4u trên đường Trần Huy Liệu, HCM hoặc Sách Hà Nội trên Minh Khai)

Những Đỉnh Cao Chỉ Huy thể hiện một cách thuyết phục và đầy ấn tượng về những thách thức chủ yếu của thời đại ngày nay và tương lai đối với các chính sách của chính phủ và hoạt động của các công ty.
(Trường Đại Học Harvard).

Thực ra, câu chuyện thất bại nhà nước và thất bại thị trường hay mối quan hệ nhà nước - thị trường không phải chủ đề nghiên cứu mới hay của riêng công trình do UNDP thực hiện. Nó chỉ góp thêm một tiếng nói, rất thiết thực và bổ ích, trực tiếp cho người Việt Nam lúc đó mới chập chững bước vào kinh tế thị trường - một thị ttrường mới mở cửa ( mới được mươi năm kể từ khi đổi mới), nhằm làm sáng tỏ thêm một vấn đề có thể coi là xưa cũ, một vấn đề đã từng đeo đẳng, giày vò loài người nhiều thế kỷ mãi cho tới tận ngày hôm nay.

Những Đỉnh Cao Chỉ Huy cũng là một công trình được viết trong nỗi ám ảnh của sự giày vò đó. Nó cũng bàn về vấn đề nhà nước - thị trường. Như hàng ngàn cuốn sách khác, nó bàn về một trong những vấn đề lớn nhất, phức tạp nhất, gây nhiều phiền hà nhất, do đó, cũng là thú vị nhất của lịch sử phát triển nhân loại.
Cuốn sách có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi lớn của lịch sử hiện đại: Tại sao phải chuyển sang cơ chế thị trường ? Tại sao và như thế nào mà sự chuyển đổi từ kỷ nguyên, trong đó, chính phủ các quốc gia luôn tìm cách nắm giữ và kiểm soát nền kinh tế nhà nước sang kỷ nguyên với những ý tưởng về cạnh tranh, mở cửa, tư nhân hoá và bãi bỏ các phép tắc đã và đang thống trị tư tưởng kinh tế thế giới? Liệu những thay đổi này có phải là không thể đảo ngược? Chúng có phải là một phần của quá trình phát triển và tiến hoá liên tục? Hơn thế nữa kết quả và viễn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế của sự thay đổi căn bản này trong mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường là gì?
Đối diện với loài người là một thế giới ngày càng toàn cầu hoá. Trong thế giới đó, không gian thu hẹp lại, thời gian được rút ngắn lại, các rào biên giới hạ thấp, và thế giới trở thành một ngôi làng. Khi đó, nền kinh tế thị trường vận hành với nhêìu quy tắc mới. Toàn cầu hoá, như các tác giả viết, là một thách thức đối với nhà nước. Vì vậy mà vai trò và chức năng của nhà nước chắc chắn cũng sẽ có những thay đổi mạnh mẽ. Quyền lực nhà nước bị giới hạn trong phạm vi quốc gia có thể sẽ xung đột với quá trình toàn cầu hoá các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Khí đó, câu hỏi đặt ra sẽ là những đỉnh cao chỉ huy mà các nhà nứơc - quốc gia luôn muốn chiếm lấy để khống chế nền kinh tế thị trường liệu có những giá trị nào? Nhà nước sẽ tham gia vào quá trình phát triển mang tính toàn cầu với những công cụ và phương cách nào?

Những khó khăn mà chúng ta đang gặp phải trong quá trình cải cách hành chính, hay rộng hơn, cải cách nhà nứơc và hệ thống chính trị, cho thấy rõ mức độ phức tạp của việc trả lời các câu hỏi mà đất nước đang bắt buộc phải trả lời đó.
Trong lộ trình đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó, có thể tin rằng cuốn sách này là một người bạn tốt.


(Theo Vinabook)



Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN mà Việt Nam đang theo đuổi đã, đang và sẽ là một trong những vấn đề trọng tâm, gây ra những tranh cãi và thảo luận không dứt. Thuật ngữ “những đỉnh cao chỉ huy” vốn được Lenin dùng để ám chỉ những ngành kinh tế trọng yếu của đất nước, những ngành có thể kiểm soát được hiệu quả và hỗ trợ cho những ngành khác; tức là những ngành mà Nhà nước cần nắm chắc trong tay khi xây dựng kinh tế thị trường. Vấn đề đặt ra luôn là: Nhà nước cần nắm giữ những “đỉnh cao chỉ huy “ nào, đâu là vai trò và trách nhiệm của Nhà nước và thị trường (ai là người chịu lỗi lớn nhất) trong những thất bại của nền kinh tế đã từng xảy ra trong thế kỷ XX trên khắp thế giới?

Bằng hàng loạt khảo sát trên nhiều trường hợp đa dạng, trải chiều dài lịch sử thế kỷ XX, các tác giả đã góp thêm nhiều kiến giải cho những vấn đề nêu trên. Đây là một cuốn sách dày nhưng không hề khô khan, trái lại rất cần thiết cho độc giả Việt Nam – quốc gia mới chập chững trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN. Những bài học về quan hệ Nhà nước – Thị trường trình bày trong cuốn sách có thể là những thông tin và kinh nghiệm bổ ích cho các nhà hoạch định chính sách công, các nhà kinh tế và tất cả những ai quan tâm đến hiện tình kinh tế của nước ta.

(Theo Sach Hay)



Командные высоты (tiếng Việt dịch là Những đỉnh cao chỉ huy) là tựa đề một bài diễn văn của V. I. Lenin. Lenin sử dụng khái niệm này trong báo cáo đọc tại Đại hội lần thứ 4 của Quốc tế Cộng sản để nói về những ngành kinh tế có thể kiểm soát được hiệu quả và hỗ trợ cho các ngành khác. Thực ra đây là một thuật ngữ quân sự chỉ những điểm cao quan trọng mang tính chi phối chiến trường, gọi là cao điểm chiến lược.

Lenin nói: “Chúng tôi buộc phải đi đường vòng. Chủ nghĩa tư bản nhà nước như chúng tôi đã thiết lập trong nước là một chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt. Nó khác với khái niệm thông thường về chủ nghĩa tư bản nhà nước. Chúng tôi nắm tất cả những đỉnh cao chỉ huy”.

Phải chăng chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt này chính là xuất xứ của khái niệm kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhưng được Lenin gọi thẳng là chủ nghĩa tư bản nhà nước? Chỉ tiếc là sau đó Lenin mất nên không rõ lý thuyết và thực tiễn cụ thể của chủ nghĩa tư bản nhà nước đặc biệt này như thế nào, có hoạt động được không?

Năm 1998, Daniel Yergin và Joseph Stanislaw đã dùng thuật ngữ Những đỉnh cao chỉ huy làm tiêu đề cho cuốn sách của mình: Commanding Heights: The Battle for the World Economy, mà các bạn đang có bản tiếng Việt trong tay.

LỜI GIỚI THIỆU

Cách đây 8 năm (năm 1998), công trình nghiên cứu Từ thần kỳ tới khủng hoảng - những bài học có ích cho Việt Nam của Chương trình Phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Hà Nội về cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Đông Á 1997-1998 đã đưa ra một khuyến cáo gây sự chú ý đặc biệt. Đó là khuyến cáo về “thất bại nhà nước” trong việc điều hành nền kinh tế thị trường, được UNDP coi là nguyên nhân chính gây ra sự sụp đổ của hàng loạt nền kinh tế “thần kỳ” ở Đông Á. Đối với nhiều người trong giới nghiên cứu và hoạch định chính sách ở Việt Nam lúc đó, lời cảnh báo này có phần gây “sốc”. Đơn giản vì nó đưa ra một luận điểm khá mới mẻ so với nhận thức phổ biến trong xã hội, mang tính chuẩn mực giáo khoa nhưng lại khá thiên lệch, quy mọi thứ bất ổn xảy ra trong nền kinh tế thị trường cho cái gọi là “thất bại thị trường”. Công trình nghiên cứu này cho rằng “thất bại nhà nước” vẫn thường xảy ra và gây tai hoạ to lớn không kém “thất bại thị trường”.

Thực ra, câu chuyện “thất bại nhà nước” và “thất bại thị trường” hay mối quan hệ “nhà nước” - “thị trường” không phải chủ đề nghiên cứu mới hay của riêng công trình do UNDP thực hiện. Nó chỉ góp thêm một tiếng nói, rất thiết thực và bổ ích, trực tiếp cho người Việt Nam lúc đó mới “chập chững” bước vào kinh tế thị trường - một thị trường mới mở cửa (mới được mươi năm kể từ khi đổi mới), nhằm làm sáng tỏ thêm một vấn đề có thể coi là “xưa cũ”, một vấn đề đã từng đeo đẳng, giày vò loài người nhiều thế kỷ mãi cho tới tận ngày hôm nay.

Cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay cũng là một công trình được viết trong nỗi ám ảnh của sự giày vò đó. Nó cũng bàn về vấn đề “nhà nước - thị trường”. Như hàng ngàn cuốn sách khác, nó bàn về một trong những vấn đề lớn nhất, phức tạp nhất, gây nhiều “phiền hà” nhất, do đó, cũng là thú vị nhất của lịch sử phát triển nhân loại.

Nhưng dù là bàn về một chủ đề “xưa cũ”, đây vẫn là một cuốn sách đáng đọc đáng đọc vì giá trị xuyên suốt lịch sử vấn đề, vì sự mổ xẻ kỹ càng bản chất vấn đề từ các chiều cạnh khác nhau của nó đáng đọc vì tính mục đích và tính định hướng tương lai của cuốn sách. Tựa đề cuốn sách: Những đỉnh cao chỉ huy - Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới - đã bao hàm những giá trị đó. Đọc một cuốn sách có độ dày hơn 800 trang, trong thời đại mà “văn hoá nghe nhìn” đang lấn lướt “văn hoá đọc hiểu”, lại về một chủ đề không mới, quả thật là mạo hiểm. Nhưng khi đã cầm cuốn sách và đọc nó, mọi người sẽ thấy ngay từ trang đầu tiên rằng đó là một sự mạo hiểm đáng giá. Hơn 800 trang là độ dày cần thiết và có thể chấp nhận. Đọc từ trang đầu tiên đến trang cuối cùng của cuốn sách, điều ta cảm nhận được sẽ là một bức tranh toàn cảnh đủ chân thực, rất phong phú và sinh động về lịch sử phát triển của loài người trong suốt thế kỷ XX, một thế kỷ biến động nhất của lịch sử, được dựng lên xuyên qua một cái trục quan trọng bậc nhất của nó là trục nhà nước - thị trường.

Như chính các tác giả viết, cuốn sách có nhiệm vụ trả lời những câu hỏi lớn của lịch sử hiện đại: “Tại sao phải chuyển sang cơ chế thị trường? Tại sao và như thế nào mà sự chuyển đổi từ kỷ nguyên, trong đó, chính phủ các quốc gia luôn tìm cách nắm giữ và kiểm soát nền kinh tế nhà nước sang kỷ nguyên với những ý tưởng về cạnh tranh, mở cửa, tư nhân hoá và bãi bỏ các phép tắc đã và đang thống trị tư tưởng kinh tế thế giới? Liệu những thay đổi này có phải là không thể đảo ngược? Chúng có phải là một phần của quá trình phát triển và tiến hoá liên tục? Hơn thế nữa kết quả và viễn cảnh chính trị, xã hội, kinh tế của sự thay đổi căn bản này trong mối quan hệ giữa chính phủ và thị trường là gì?”

Giải thích thêm cho việc lựa chọn những câu hỏi đó, cũng là để xác định một cách tiếp cận đến các câu trả lời, các tác giả cho rằng “ranh giới giữa chính phủ và thị trường không thể được phân định dứt khoát bởi một số cuộc hội thảo ôn hòa. Đây là chủ đề của các cuộc chiến lớn nhỏ về trí tuệ và chính trị trong suốt một thế kỷ. Các cuộc chiến nói chung đã tạo nên một trong những vở kịch lớn định hình thế kỷ XX. Ngày nay, mâu thuẫn giữa thị trường và sự kiểm soát của chính phủ đã trở nên sâu rộng đến mức đang làm thay đổi cả thế giới và làm nền cho thế kỷ XXI.”

Theo cách tiếp cận như vậy, cuốn sách chính luận này làm một cuộc khảo sát lại lịch sử tiến triển, cũng là sự thăng trầm, của các “đỉnh cao chỉ huy” trong sự giằng co nhà nước - thị trường, giúp nhận diện rõ hơn thực chất lý luận của quá trình này. Chúng ta sẽ tìm thấy qua các chương của cuốn sách những diện mạo khác nhau của nhà nước và thị trường. Đó là những diện mạo khác nhau trong các giai đoạn phát triển của lịch sử, giữa các hệ thống chính trị - xã hội, giữa các châu lục với các nền văn hoá và truyền thống khác nhau, giữa các trường phái khác nhau. Chân dung lịch sử của nhà nước, cũng như của thị trường, được cuốn sách vẽ lại từ nhiều chiều cạnh, góc độ và trong mối tương quan so sánh.

Cuốn sách đáng trân trọng vì nó cung cấp một cái nhìn khách quan và công bằng về lịch sử, về một đối tượng có tầm quan trọng sống còn của lịch sử, về một mối quan hệ có một số phận rất thăng trầm, dễ bị phán xét một cách phiến diện, thiên lệch, theo kiểu “dậu đổ bìm leo”. Nhà nước và mối quan hệ nhà nước - thị trường trong đa số trường hợp, cho đến nay vẫn thường là “nạn nhân” của sự phán xét như vậy.

Cuốn sách cho người đọc thấy rằng nhờ nắm được “các đỉnh cao chỉ huy”, nhà nước đã từng đóng vai trò rất to lớn trong sự phát triển quốc gia. Vai trò này không chỉ thể hiện ở các nước xã hội chủ nghĩa - kế hoạch hoá tập trung trước đây mà còn đặc biệt rõ ràng trong các nền kinh tế thuộc hệ thống tư bản chủ nghĩa, từ các nước phát triển cao nhất cho đến các nước kém phát triển. Các tác giả đã chứng minh không bác bỏ được rằng thậm chí ngay cả ở những nước tư bản phát triển nhất, tức là nơi có nhiều thị trường nhất, thì nhà nước cũng đã từng - và hiện vẫn đang - đóng vai trò to lớn, không chỉ là vai trò quan trọng mà còn là yếu tố quyết định sự phát triển, trong những giai đoạn lịch sử xác định. Lịch sử các nước Mỹ, Pháp, Đức, Nhật, của các nền kinh tế thần kỳ Đông Á, của Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam, và của rất nhiều nước khác đã xác nhận điều đó. Dựng lại lịch sử, cuốn sách làm một việc là giúp người đọc thấy rõ hơn “bàn tay hữu hình”, tức là nhà nước, quan trọng đến nhường nào đối với loài người, cả trong hệ thống XHCN “cũ” lẫn hệ thống TBCN hiện đang tồn tại. Trong sự biện chứng của lịch sử, các chứng cứ thực tiễn được cuốn sách nêu ra khẳng định một điều: bàn tay vô hình của thị trường chỉ thực sự hữu ích một khi nó kết hợp với bàn tay hữu hình của nhà nước nhằm mục tiêu phục vụ sự phát triển của nền kinh tế thị trường.

Vì những công lao to lớn, nhà nước xứng đáng được nhận những bản tụng ca đẹp nhất. Cuốn sách đã đưa ra nhiều luận cứ, nhiều bằng chứng để chứng minh một cách thuyết phục nhận định đó. Người đọc, dù đứng trên lập trường nào, cũng sẽ cảm nhận được sự công bằng lịch sử của phán xét này.

Nhưng xét về bản chất, cuốn sách này được viết ra không phải để ngợi ca nhà nước. Nó không phải là bản tụng ca về nhà nước. Nó mổ xẻ thực tiễn và chứng tỏ rằng bên cạnh những “công lao” to lớn, nhà nước còn phạm không ít sai lầm, gây ra nhiều hậu quả, kể cả những hậu quả làm rung chuyển lịch sử. Sự sụp đổ của hệ thống XHCN thế giới dựa trên nền tảng cơ chế kế hoạch hoá tập trung hay gần đây hơn, cuộc khủng hoảng của các nền kinh tế “thần kỳ” của Đông Á cách đây một thập niên là những ví dụ điển hình minh chứng cho điều đó. Những sai lầm của nhà nước, như cuốn sách chỉ ra, hiện diện trong tất cả các hệ thống kinh tế, ở khắp các châu lục, trong mọi giai đoạn phát triển và có nguồn gốc lý luận từ các quan niệm khác nhau về vai trò của nhà nước và thị trường.

Tất nhiên, kể ra đầy đủ, toàn diện “lỗi lầm” của các loại nhà nước không phải là cách mà các tác giả sử dụng để xoá nhoà các ranh giới, làm mờ đi bản chất của nhà nước. Mục tiêu của cuốn sách là rõ ràng: cần phải chỉ ra thất bại nhà nước mà không bị sự chi phối của các thiên kiến, làm rõ các nguyên nhân lịch sử của chúng để giúp nền kinh tế thị trường vận hành hiệu quả hơn.

Thiết nghĩ cuốn sách đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình. Nhưng cũng cần nói thêm rằng đây là cuốn sách dựng lại chân dung lịch sử để hướng tới tương lai.
Đối diện với loài người là một thế giới ngày càng toàn cầu hoá. Trong thế giới đó, không gian thu hẹp lại, thời gian được rút ngắn lại, các hàng rào biên giới hạ thấp, và thế giới trở thành một “ngôi làng”. Khi đó, nền kinh tế thị trường vận hành với nhiều quy tắc mới. Toàn cầu hoá, như các tác giả viết, là một thách thức đối với nhà nước. Vì vậy mà vai trò và chức năng của nhà nước chắc chắn cũng sẽ có những thay đổi mạnh mẽ. Quyền lực nhà nước bị giới hạn trong phạm vi quốc gia có thể sẽ xung đột với quá trình toàn cầu hoá các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Khi đó, câu hỏi đặt ra sẽ là: “những đỉnh cao chỉ huy” mà các nhà nước - quốc gia luôn muốn chiếm lấy để “khống chế” nền kinh tế thị trường liệu có những giá trị nào? Nhà nước sẽ tham gia vào quá trình phát triển mang tính toàn cầu với những công cụ và phương cách nào?

Đó là những câu hỏi rất lớn đang đặt ra. Cũng là về nhà nước - thị trường, về “những đỉnh cao chỉ huy” nhưng với nội dung rất mới. Cuốn sách tiếp cận đến các câu hỏi này không chỉ để gợi suy. Nó còn là những câu trả lời. Có thể những câu trả lời hãy còn xa mới đầy đủ và đúng đắn. Song tất cả những gì hiện có trong cuốn sách là rất bổ ích, cả từ góc độ nhận thức luận lẫn phương pháp luận.

Đối với Việt Nam chúng ta, một đất nước đã 20 năm đi vào quỹ đạo phát triển kinh tế thị trường và mở cửa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình này, nhiều “đỉnh cao chỉ huy” đã được Nhà nước bàn giao lại cho Thị trường. Nhờ đó, nền kinh tế đã gặt hái được nhiều thành công ngoạn mục. Nhưng dường như quá trình này vẫn chưa hoàn thành. Khuynh hướng muốn “giành lại”, “ôm chặt” lấy các “đỉnh cao chỉ huy” vẫn còn rất mạnh. Trên thực tế, vẫn đang tồn tại tình trạng “thiếu và thừa” nhà nước. Thiếu ở nơi cần, thừa ở nơi đã đủ. Đó là một nghịch lý phát triển mà chúng ta đang chấp nhận và phải trả giá. Tham nhũng, hiệu quả đầu tư thấp, chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh chậm được cải thiện, cải cách thị trường bị phanh hãm, v.v… có nguồn gốc từ nghịch lý này.

Giờ đây, khi quá trình cải cách thị trường vẫn chưa hoàn thành, nền kinh tế nước ta lại bước vào một giai đoạn phát triển mới về chất: hội nhập sâu hơn và toàn diện hơn vào nền kinh tế thế giới. Cơ hội nhiều hơn, lớn hơn. Nhưng rủi ro, thách thức cũng gay gắt và khốc liệt hơn. Số phận của nền kinh tế đang tuỳ thuộc vào chỗ cái nào trong số đó - cơ hội hay thách thức - sẽ trở thành hiện thực sớm hơn.

Chắc chắn trong việc giải quyết vấn đề sinh tử này, Nhà nước sẽ đóng một vai trò lớn chưa từng thấy. Nhưng vai trò đó thực sự là gì? Và bằng cách nào để thực hiện nó đúng đắn?

Những khó khăn mà chúng ta đang gặp phải trong quá trình cải cách hành chính, hay rộng hơn, cải cách nhà nước và hệ thống chính trị, cho thấy rõ mức độ phức tạp của việc trả lời các câu hỏi mà đất nước đang bắt buộc phải trả lời đó.

Trong lộ trình đi tìm câu trả lời cho những câu hỏi đó, có thể tin rằng cuốn sách này là một người bạn tốt.

Xin trân trọng giới thiệu với bạn đọc.

Hà Nội, ngày 28 tháng 6 năm 2006

PGS. TS. TRẦN ĐÌNH THIÊN
VIỆN KINH TẾ VIỆT NAM



MỤC LỤC

Mở đầu
TRÊN ĐƯỜNG RANH

1. BA MƯƠI NĂM HUY HOÀNG
Nền kinh tế hỗn hợp ở châu Âu

2. TAI ƯƠNG TỪ SỰ ĐỒ SỘ
Chủ nghĩa tư bản tự điều chỉnh kiểu Mỹ

3. LỜI THỀ ĐỊNH MỆNH
Sự nổi lên của Thế giới thứ ba

4. VỊ THẦY TU MẤT TRÍ
Cuộc Cách mạng Thị trường của nước Anh

5. KHỦNG HOẢNG NIỀM TIN
Cả thế giới chỉ trích

6. HƠN CẢ THẦN KỲ
Sự nổi lên của châu Á

7. MÈO ĐEN, MÈO TRẮNG
Công cuộc cải cách của Trung Quốc

8. SAU CHẾ ĐỘ CẤP PHÉP
Sự thức tỉnh của Ấn Độ

9. TUÂN THEO LUẬT CHƠI
Trò chơi mới ở Mỹ Latin

10. CHIẾC VÉ TỚI KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Hành trình tiếp sau chủ nghĩa cộng sản

11. LỜI CAM KẾT
Châu Âu kiếm tìm một khế ước xã hội mới

12. CUỘC CÁCH MẠNG BỊ TRÌ HOÃN
Thế cân bằng mới của nước Mỹ

13. KỶ NGUYÊN TOÀN CẦU HOÁ
Cuộc chiến vì nền kinh tế thế giới

14. NIỀM TIN TRỞ LẠI
Luật chơi mới

=> sách đọc không mấy thú vị, thuộc thể loại như "Thế giới phẳng". Cả cuốn sách chỉ là kể về công cuộc giành lấy vai trò thống trị của từng quốc gia, trải dài từ các nước châu Âu sang châu Mỹ, châu Á, châu Phi. Chỉ đơn thuần là kể con đường đi lên chứ không làm rõ những "khuất tất" tại sao những con người đó (nhà chỉ huy tại các đỉnh cao) được đề bạt, thăng tiến. Có thể xem đây là cuốn Cuộc đời và sự nghiệp của các nhà lãnh đạo.

Monday, October 27, 2008

Lịch sử bí mật đế quốc Hoa Kỳ ( The Secrect History of American Empire ) - John Perkins


Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia - Sự thật
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Số trang: 584
Gia : 104.000VND
Ngay xuat ban: 26/11/2008

Tóm tắt

Những nhân vật và sự kiện được đề cập trong cuốn sách này hoàn toàn có thật. Tôi đã làm hết sức mình để giới thiệu thật chân thực về họ dựa trên những hồ sơ cá nhân, bản ghi chép, cũng có thư từ, e-mail, những hồi tưởng cũng như những văn bản được phép xuất bản. Trong một số trường hợp, tôi cũng có thay đổi tên nhân vật và các tình tiết, vì đó là một điều kiện mà rất nhiều người đặt ra khi tôi tiến hành phỏng vấn họ, hoặc cũng có khi tôi kết hợp các đoạn đối thoại cho phù hợp với mạch bài viết nhưng chỉ ở những đoạn không ảnh hưởng tới tính chân thực của cuốn sách. Mỗi khi đề cập tới những sự kiện lịch sử, tôi luôn tuân thủ giao ước của mình là cung cấp những thông tin cũng như ghi chép thật chính xác, đôi khi tôi còn minh họa thêm cho bài phát biểu của các nhân vật bằng những tài liệu tham khảo có liên quan ở phần ghi chú phía cuối. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi thay đổi hay xác nhận những chi tiết ẩn đằng sau những câu chuyện riêng tư đó; khi mỗi người kể về vai trò của họ trong những vụ không tặc máy bay dân dụng, xâm chiếm một đất nước để ám sát người đứng đầu đất nước, mua chuộc những nhà lãnh đạo cấp cao, đầu cơ trục lợi từ những thảm họa thiên nhiên, dụ dỗ và tống tiền những quan chức được bầu dân chủ, và kiểm soát những hành động bí mật khác, tôi cảm thấy mình phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ những lời kể của họ. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ một sự kiện nào mà tôi đề cập đến đều từng được các tác giả khác, các sử gia và nhà báo hay những tài liệu lưu trữ của các tổ chức như Ngân hàng Thế giới đưa ra làm tài liệu dẫn chứng; vì vậy, câu chuyện có thể là của tôi nhưng các tình tiết trong đó đều là sự thật.

Mục lục

Phần một 33
Châu Á 33

Phần hai 149
MỸ LATINH 149

PHẦN III 283
KHU VỰC TRUNG ĐÔNG 283

PHẦN IV 393
CHÂU PHI 393

PHẦN V 479
THAY ĐỔI THẾ GIỚI 479

TuanVietNam

"Chính trị vỉa hè"

"Có tin đồn rằng George W. Bush đã bị quay lén khi đang sử dụng cocain và có hành vi quan hệ tình dục bất chính trong thời gian cha anh ta làm tổng thống."

Thế rồi, nhà lãnh đạo Panama lúc đó là Noriega đã "sử dụng những bức ảnh đồi truỵ của Bush con và người tình để thuyết phục Bush cha (khi đó đang là tổng thống) đứng về phía chính quyền Panama trong những vấn đề chủ chốt. Để trả đũa, Mỹ mang quân xâm lược Panama và đẩy Noriega vào nhà tù Miami."

Sự kiện Mỹ tấn công Panama năm 1989 được giải thích như vậy trong Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ. Không ai ngạc nhiên khi sách của John Perkins bán chạy. Ông biết cách viết, biết cách thắt nút và mở nút, biết đưa vào trong câu chuyện những tình tiết "vỉa hè" để một cuốn sách chính trị trở nên sống động, hấp dẫn.

Nếu như Lời thú tội của một sát thủ kinh tế (từ đây viết tắt là Lời thú tội) được viết như một tự truyện theo mạch thời gian tuyến tính, Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ (từ đây viết tắt là Bí sử) là một kiểu tự truyện được viết theo mạch không gian phi tuyến tính.

Cuốn sách đầu tiên của Perkins kể lại tuần tự cuộc đời sát thủ kinh tế của ông, từ khi "bán linh hồn cho quỷ" để gia nhập đội ngũ sát thủ kinh tế đến khi ngộ ra "tội lỗi". Cuốn sách thứ hai này chỉ như những ghi chép có ý thức của Perkins khi đi qua rất nhiều quốc gia và lục địa khác nhau. Từ Châu Á, Châu Mỹ Latinh rồi tới Châu Phi, đi đến đâu, Perkins cũng viết ra những trải nghiệm của mình và những người khác. trong quá trình nhận ra bản chất thật sự của "đế chế Hoa Kỳ".

Có khác nhau về cách kể chuyện, nhưng ý tưởng và thông điệp thì vẫn thế. Có thể coi Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ là phần tiếp theo của "bản tuyên ngôn" chống đế chế Mỹ nói riêng và toàn cầu hóa nói chung.

Những con bò cái bị vắt sữa

"Con bò cái mà chúng ta có thể vắt sữa cho tới khi về hưu"

Trong Lời thú tội, phó chủ tịch MAIN, một công ty tư vấn của Mỹ, đã nói như vậy khi nhắc tới Ảrập Xêút. Mà không chỉ đất nước này, toàn bộ các quốc gia đang phát trển theo Perkins đều là những con bò cái để nước Mỹ và tập đoàn đa quốc gia của họ "vắt sữa".

Hai cuốn sách của Perkins đều tập trung mô tả những âm mưu, quá trình và thủ đoạn "vắt sữa" của đế chế Mỹ. Âm mưu được thực hiện theo một tiến trình tuần tự với nhiều thủ đoạn. Núp dưới danh nghĩa xóa đói giảm nghèo, tập đoàn trị Mỹ (một liên minh giữa chính phủ, các ngân hàng và tập đoàn lớn) tìm mọi cách "viện trợ", "cho vay" để giúp các nước nghèo phát triển.

Qua những công ty tư vấn như MAIN (công ty mà Perkins từng làm việc), các sát thủ kinh tế vẽ ra những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng… cho các nước nghèo và hào phóng cho họ vay tiền để thực hiện những kế hoạch đó.

Thực chất, các kế hoạch đã được sát thủ kinh tế "thổi phồng" và "phóng đại" hơn nhiều so với thực chất. Mục tiêu là để các nước khác phải vay thật nhiều và ngập trong nợ nần. Cho tới khi đó, nước Mỹ sẽ nắm quyền kiểm soát, ép các quốc gia đó phải trả nợ bằng nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ của họ.

Tài nguyên bị vắt kiệt để trả nợ chứ không phải đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục, y tế đã đẩy dân nghèo ở các nước đang phát triển vào tình trạng bần cũng hóa. Đó là cái nôi nuôi dưỡng những kẻ khủng bố nước Mỹ mà sự kiện 11/9 là một ví dụ. Môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng bởi các tập đoàn tranh nhau khai thác vô tội vạ tài nguyên, khiến trái đất đứng trước những hiểm hoạ khôn lường.

Cuộc thập tự chinh mới của một đế quốc mới

Theo Perkins thì những định chế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chỉ là những con bài để nước Mỹ sử dụng nhằm ép các nước nghèo đi theo quỹ đạo của họ. Đó là một cuộc Thập tự chinh mới, không phải bằng quân sự mà bằng kinh tế, không phải bằng những chiến binh giáo mác trên tay mà bằng những sát thủ kinh tế với các bản báo cáo giả tạo được vẽ vời cho ra vẻ khoa học. Mục tiêu là mở rộng đế chế Mỹ trên phạm vi toàn cầu để phục vụ cho lợi ích của một thiểu số những quan chức cấp cao và chủ những tập đoàn lớn.

Nhưng theo Perkins, thủ đoạn của đế chế Mỹ còn kinh khủng hơn thế. Khi những quốc gia đang phát triển bất tuân theo sự điều khiển của Mỹ, "lũ chó săn bắt đầu sử dụng đến những chiếc gậy bóng chầy và cuối cùng là súng." Những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chống lại sự bóc lột của tập đoàn Mỹ sẽ bị mua chuộc bởi các sát thủ kinh tế.

Nếu các sát thủ kinh tế thất bại, những sát thủ thật sự của CIA sẽ vào cuộc. Cái chết của tổng thống Ecuador Jaime Roldos, tổng thống Panama Omar Torrijos và hàng loạt cái tên khác Arbenz, Mossadegh, Allende… đều có bàn tay vấy máu của CIA.

Gần đây nhất là cuộc chiến tranh Iraq để lật đổ nhà độc tài chống Mỹ Saddam Hussein dưới chiêu bài chống khủng bố. Theo Perkins, thực chất của tất cả những mỹ từ như dân chủ, nhân quyền, chống khủng bố chỉ là lớp áo che đậy cho âm mưu thật sự của Mỹ nhằm tước đoạt nguồn dầu mỏ, khoáng sản và khuynh loát thị trường của những quốc gia nghèo.

Trong Bí sử, Perkins đã định nghĩa đế quốc là một dân tộc thống trị dân tộc khác với 7 đặc điểm cơ bản và theo đó thì nước Mỹ hiện nay có cả bảy đặc điểm của một đế quốc. Tưởng như thời đại của chủ nghĩa đế quốc đã qua rồi nhưng thực chất, một hệ thống đế quốc mới đang được dựng nên, tinh vi và hiệu quả nhất mà thế giới từng thấy.

Tấn công vào "trái tim nhỏ máu của vua chúa"

Hai cuốn sách của Perkins như những bản cáo trạng đanh thép chống lại đế chế Mỹ mà đứng đằng sau nó là những tập đoàn lớn. Đọc Perkins để thấu hiểu những lý lẽ của phe chống toàn cầu hóa, thấu hiểu tại sao nhiều người dân ở Châu Mỹ Latinh và các quốc gia Trung Đông lại căm ghét nước Mỹ đến như vậy.

Perkins khiến người đọc phải nhìn lại tất cả những quan niệm cũ về ODA, FDI, WB, IMF… Tất cả những khoản vay "ưu đãi" được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng lại trở về túi chính những công ty trúng thầu là các tập đoàn của các nước cho vay. Cuối cùng, chỉ có các nước nghèo lâm vào cảnh nợ nần bởi những khoản vay khổng lồ dùng để tài trợ cho những dự án "bánh vẽ".

Tuy nhiên, nhìn đi cũng phải nhìn lại. Perkins có lẽ đã đi quá đà khi sử dụng thứ ngôn ngữ nặng nề nhất để chỉ trích không tiếc lời đế chế Mỹ, các tập đoàn Mỹ và tiến trình toàn cầu hóa. Không thấy có đoạn nào ông nhắc tới những giá trị mà nó đã tạo ra. Không thấy Perkins nói về những lợi ích to lớn của toàn cầu hóa, những đóng góp vĩ đại của các tập đoàn trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm, cải tiến mẫu mã, giảm giá thành…

Tất cả tội lỗi từ sự huỷ hoại của môi trường tới sự nghèo khổ của người dân các nước đang phát triển đều bị đổ vấy lên đầu các tập đoàn lớn, các nước giàu. Đọc Perkins dễ làm nhiều người bị kích động đi theo một quan điểm nguy hiểm: nghèo đói là vinh quang, giàu sang là tội lỗi, người nghèo vẫn cứ nghèo bởi bọn nhà giàu ăn cướp của họ. Lịch sử những cuộc cải cách ruộng đất, cách mạng văn hóa, quốc hữu hóa công nghiệp ở nhiều quốc gia đã chứng minh rằng quan điểm đó chỉ dẫn tới thảm họa.

May thay, phần kết của Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ đã mở ra một bầu trời tươi sáng hơn. Perkins đề xuất ra những biện pháp đấu tranh để "thay đổi chính bản thân các tập đoàn", khiến những tập đoàn lớn phải thực hiện những chính sách vì con người, vì môi trường và vì cộng đồng nhiều hơn.

Mỗi người phải có ý thức trong hành xử và tiêu dùng, phải ảnh hưởng tới những người khác, thuyết phục tập đoàn trị thay đổi chính sách của họ để biến "chủ nghĩa tư bản đế quốc thành chủ nghĩa tư bản dân chủ."

"Ngay cả vua chúa cũng là con người. Trái tim họ cũng có thể tan vỡ, chúng nhỏ máu. Họ có thể bị thuyết phục…" Thông điệp trong những trang cuối của cuốn sách đã mở ra những giải pháp tích cực để "chúng ta cùng chung tay đổi thay thế giới" như lời kêu gọi của Perkins.

* Khánh Duy

Một vài ý kiến của những người bình luận (phần lớn là chưa đọc sách)
Họ và tên: Hoàng Mai Dân
Địa chỉ: Hà Nội
Email: hoangmaidan@gmail.com

Tôi đã đọc cuốn "Lời thú tội của một sát thủ kinh tế", tôi đang đọc gần xong cuốn "Đô la hay lá nho" của Charles Wheelan. Hai tác giả này có cách nhìn khác nhau về thương mại và toàn cầu hoá nhưng cả 2 cuốn sách đều hay, với những ví dụ rất thực tế của toàn cầu hoá.

Có lẽ vì J. Perkins đã từng là một "sát thủ kinh tế" nên các ví dụ và cách phân tích của ông xoáy sâu vào bản chất vấn đề của các nhà đế quốc đã tính toán trước. Còn C. Wheelan đứng từ góc độ của một nhà phân tích kinh tế nên ông thấy được nhiều về lợi ích và tác hại kèm theo của việc toàn cầu hoá và giá trị lao động cũng như tiềm năng của mỗi quốc gia.

Cái gì cũng có điểm tốt, điểm xấu nhưng quan trọng là phải có cái nhìn khách quan và tận dụng những yếu tố có lợi cho mình và tiến lên.


Họ và tên: Nguyễn Trung Hiếu
Địa chỉ:
Email: olu2711@yahoo.com

Theo tôi nghĩ, chúng ta phải nên có tìm hiểu thấu đáo vấn đề rồi hãy rút ra kết luận. Tại sao chúng ta lại chỉ đọc vài dòng giới thiệu để rồi phê phán cuốn sách này cuốn sách kia. Nếu có phê phán thì hãy đọc xong cuốn sách chứ??
Tôi xin đặt câu hỏi cho tất cả các bạn phê phán cho cuốn sách này : Mĩ sẽ làm gì khi những đồng USD của họ phải trả cho việc mua dầu từ Trung Đông?
Chắn hẳn, các bạn sẽ nhận thấy 1 điều, nếu chỉ giao thương 1 chiều, thì giờ đây Trung Đông đã nắm trong tay hàng tấn tiền USD. Vậy còn cách nào hay hơn cách để các tập đoàn hùng mạnh của Mĩ sang xây dựng cho Trung Đông những thành phố đồ sộ, những tòa cao ốc chọc trời.
Nhiều bạn sẽ đặt câu hỏi: tiền của tôi thì tôi mua sắm, chứ liên quan gì đến anh? Chuyện về thế giới kinh tế không đơn thuần là vậy. Có câu nói: giờ đây Doanh nghiệp mới là thượng đế khi người tiêu dùng buộc phải tiêu dùng mặt hàng mà họ sản xuất (xin chú thích thêm: câu nói khách hàng là thượng đế là câu nói lí thuyết đã nằm im lìm trong các sách giáo khoa kinh tế)
Tôi sẽ đặt ra cho các bạn 1 câu hỏi nữa: Thử hỏi, có ai trên đời này cho KHÔNG 1 thứ gì cho chúng ta không? Vậy các nước Mĩ, Nhật, Tây Âu liệu có cho chúng ta "Viện trợ không hoàn lại" như đúng nghĩa của nó không?


Họ và tên: Khánh Duy
Địa chỉ:
Email: lonelymagician81@yahoo.com

Mỗi người đều có quan điểm đánh giá khác nhau. Perkins không phải không có lý của ông khi phê phán các tập đoàn. Cả cuộc đời Perkins đi khắp thế giới, hiểu biết rất nhiều về sự vận hành của hệ thống này. Ông viết cuốn này tương đối chủ quan, phê phán Mỹ thậm chí thoá mạ, nhưng theo tôi có thể có hai lý do:

1) Perkins vẫn nhìn thấy mặt tích cực nhưng có thể "cố tình" viết tiêu cực, nặng nề như vậy để kêu gọi sự thay đổi từ phía người dân và các tập đoàn. Một cuốn sách mang tính tuyên ngôn cho một quan điểm, nó không thể trung dung được mà buộc phải cực đoan.

2) Perkins với những kinh nghiệm làm sát thủ kinh tế của mình quá bị ảnh hưởng bởi những mặt tiêu cực. Ông viết từ những "thiên vị" của mình, cách nhìn tiêu cực của mình, không cần để ý tới khía cạnh tích cực.

Bản thân tôi ủng hộ toàn cầu hóa mà sau khi đọc xong mấy cuốn này cũng phải suy nghĩ lại một số quan điểm cũ của mình.

Nên đọc và coi đó như tài liệu tham khảo để có hiểu biết khách quan hơn.


Họ và tên: Minh Hải
Địa chỉ: Hải Phòng
Email: minhhaikt@gmail.com

Quyển sách này chẳng nói lên được điều gì cả, chỉ là cực đoan một chiều chẳng còn thích hợp chút nào cho hoàn cảnh hiện tại hoặc là chỉ làm lệch hướng tư duy của chúng ta mà thôi!

Vì như tất cả chúng ta biết rằng bản chất của buôn bán là trao đổi 2 chiều và anh phải có cái gì để trao đổi với người ta mới chính là vấn đề, nếu anh có chất xám thì anh có thể dùng chất xám để trao đổi, nếu anh có tài nguyên thiên nhiên thì anh có thể khai thác để trao đổi lấy những thứ mà mình không có khả năng làm.

Ở đây tác giả chỉ đề cập có một chiều nghĩa là tác giả chỉ thấy các các nước phát triển như Mỹ hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước thế giới thứ 3 mà không thấy lợi ích của việc các nước này có thể tiếp cận với các sản phẩm kỹ thuật cao của Mỹ. Giả dụ tôi xin hỏi bạn Trung Hiếu là nếu Arab Saudi không khai thác và bán dầu cho Mỹ thì họ có thể giàu có đến như thế hay không hay dân họ sẽ phải chịu đói khổ trên cái sa mạc khô cằn mà đầy dầu mỏ đấy?

Còn bạn nói là Mỹ hay các nước phát triển o ép các nước xuất khẩu tài nguyên thì bạn càng lầm to vì tất cả chúng ta đều biết rằng giá dầu thế giới đang bị thao túng bởi tổ chức OPEC như thế nào rồi?

Ngược lại nếu Intel,IBM, AMD... mà hình thành một tổ chức độc quyền để thao túng giá chip thì ngay lập tức các bạn sẽ thấy chính phủ Mỹ áp dụng luật chống độc quyền ra sao


=> Tớ chưa đọc cuốn này nhưng qua lời giới thiệu thì thấy nó cũng hấp dẫn giống "Hồi ký của một sát thủ kinh tế" (free direct download link) cũng của John Perkins. Nhà sách Alpha cũng sắp xuất bản cuốn này (da xuat ban 11/2008), tuy nhiên, những ai đam mê thì chịu khó đọc bản english này đi. Đơi khi nào đọc xong thì tớ sẽ comment tiếp, còn ai đọc rồi thì có thể comment cho mọi ngừơi hiểu thêm nha.

Free download here
No commerce, pls!!

Friday, October 24, 2008

Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó (The Credit Crisis of 2008 and What It Means)




Mô Thức Mới Cho Thị Trường Tài Chính - Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó
Tác giả: George Soros. - Dịch giả: Phạm Tuấn Anh. Hoàng Hà.
Nhà xuất bản: Nxb Tri Thức

Số trang: 284
Hình thức bìa: Bìa mềm
Kích thước: 13x20 cm
Ngày xuất bản: 10 - 2008
Trọng lượng: 260 gram
Số lần xem: 30
Giá bìa: 43.000 VNĐ

Giới thiệu về nội dung

Chúng ta đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ những năm 1930. Về vài điểm, khủng hoảng lần này giống với các cuộc khủng hoảng khác từng xảy ra trong hai mươi lăm năm qua nhưng lại có một sự khác biệt sâu sắc: khủng hoảng hiện tại đánh dấu sự kết thúc cho một kỷ nguyên phình đại tín dụng với đồng đô la Mỹ là đồng tiền dự trữ quốc tế. Trong khi những khủng hoảng theo chu kỳ là một phần của chu trình bùng vỡ (boom-bust); thì khủnghoảng hiện tại lại là đỉnh điểm của một pha bùng phát đã kéo dài trong hơn hai mươi lăm năm.

Để hiểu được điều gì đang diễn ra, chúng ta cần một mô thức mới. Mô thức thịnh hành quan niệm rằng thị trường tài chính luôn có khuynh hướng tự trở về trạng thái cân bằng là quan niệm sai lệch; nói chung chúng ta có thể quy những rắc rối hiện nay cho chính việc hệ thống tài chính quốc tế lâu nay đã bị phát triển dựa trên mô thức đó.

Là nhân vật số một trong giới tài chính, George Soros được coi là người “một tay che cả bầu trời”, là người có thể làm mất giá bất kỳ một thứ tiền tệ nào trên thế giới, hoặc thậm chí gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế với qui mô toàn cầu.

Trong Mô thức mới cho thị trường tài chính, Soros đã dùng kinh nghiệm và lí luận của mình để phân tích một cách sâu sắc và thẳng thừng cuộc khủng hoảng hiện tại, đồng thời dự đoán cho cả tương lai.

George Soros đã làm được một việc vô giá: Giúp chúng ta hiểu rõ về cuộc đại khủng hoảng tín dụng và ảnh hưởng của nó lên kinh tế toàn cầu.

Mục lục:

Lời giới thiệu

Bối cảnh

Phần I: Tổng quan

Chương 1: Ý tưởng cốt lõi

Chương 2: Tự truyện của một triết gia bất thành

Chương 3: Thuyết phản hồi

Chương 4: Tính phản hồi trong thị trường tài chính

Phần II: Khủng hoảng hiện tại và sau đó

Chương 5: Giả thuyết siêu bong bóng

Chương 6: Tự truyện của một nhà đầu cơ thành công

Chương 7: Dự phóng của tôi cho 2008

Chương 8: Một vài khuyến nghị về chính sách

Kết luận

Về tác giả.



From tuoitre
Cuốn sách tôi đang đọc

Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn: Không tiếc thời gian với George Soros
TT - Là chuyên gia kinh tế, những cuốn sách với ông Huỳnh Bửu Sơn là một hành trang không thể thiếu trong những chuyến đi đông đi Tây. Ông đọc nhiều loại sách: triết học, chính trị, xã hội, đặc biệt là sách kinh tế - tài chính, mà mới đây nhất là tác phẩm của George Soros.

* Mô thức mới cho thị trường tài chính vừa phát hành ở VN, chỉ ngay sau thời điểm phát hành ở Mỹ vài tháng, có phải sự nhanh nhạy ấy làm ông chú ý?

- Không, cái chính là George Soros đã lý giải một vấn đề rất thời sự ngay trước khi nó thật sự bùng nổ. Ông được xem là một nhà phù thủy tài chính vì những thành công vang dội với tư cách một nhà đầu tư tài chính và tiền tệ trong suốt hơn năm thập kỷ, nhưng ông lại thích ví mình là một triết gia, dù là - như ông tự nhận - một triết gia bất thành.

* Là một chuyên gia kinh tế, ông tìm thấy điều gì thú vị từ cuốn sách này?

- Mô thức mới cho thị trường tài chính được phát hành đầu năm 2008, lúc cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu đang trong giai đoạn khởi phát. George Soros đã đưa ra những lý giải về hiện tượng bong bóng và siêu bong bóng tài chính trong quá trình lịch sử bùng vỡ của nó dựa trên lý thuyết phản hồi của mình - một lý thuyết nhấn mạnh về tác động của con người vào môi trường, nhất là thị trường tài chính.

Tác động đó ông gọi là "chức năng thao túng", làm thay đổi những yếu tố cơ bản của thị trường và làm thị trường mang một đặc tính mà ông gọi là "tính có thể sai triệt để". Ðiều này làm thị trường không thể nào tự điều chỉnh và trở về trạng thái cân bằng như các lý thuyết kinh tế học, những học thuyết mà theo ông: "... các giả thiết ngày càng trở nên rối rắm đã cho ra đời một thế giới tưởng tượng chỉ phản ánh được vài khía cạnh nào đó của thực tại".

Soros đã dành gần phân nửa quyển sách trình bày về lý thuyết phản hồi của ông, lý thuyết mà ông đã ấp ủ trong hơn 20 năm hoạt động trên thị trường tài chính. Nhưng điều hấp dẫn trong quyển sách mới nhất của Soros là ông đã phân tích đúng đắn và lạnh lùng nguyên nhân và hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, tiên đoán khá chính xác về vai trò can thiệp của các chính phủ Mỹ và châu Âu để sửa chữa sai lầm.

Ông cho rằng nền kinh tế Mỹ sẽ phải mất nhiều năm để vượt qua suy thoái, đồng đôla sẽ tiếp tục quá trình suy yếu của nó, trong khi Trung Quốc và Ấn Ðộ sẽ vượt qua khủng hoảng thành công. Ông cũng tiết lộ "chiến lược đầu tư 2008" của mình trong phần cuối quyển sách, điều mà độc giả của ông - những nhà đầu tư chứng khoán và tiền tệ - sẽ rất quan tâm.

Tuy cho rằng các chính phủ sẽ phải có những hành động cần thiết để điều tiết thị trường tài chính trong tương lai, nhưng ông vẫn tin tưởng vào xã hội mở và cho rằng "thế giới đầy những điều không chắc chắn và thị trường có thể điều chỉnh thích nghi với những hoàn cảnh đổi thay tốt hơn là những công chức hành chính".

* Ông có vẻ rất tâm đắc với những tiên đoán của "phù thủy" Soros?

- Chỉ riêng thương hiệu George Soros cũng đủ để đảm bảo rằng bạn đọc - nhất là những người quan tâm đến thị trường tài chính - sẽ không hề phí thời gian khi bỏ công nghiền ngẫm nó.

V. VIỆT thực hiện

From tuanvietnam.net

Trong cuốn sách mới được xuất bản tại Việt Nam Mô thức mới cho thị trường tài chính, nhà đầu cơ tài chính George Soros đã lý giải cuộc khủng hoảng hiện nay dưới một góc nhìn khái quát nhưng cũng rất cụ thể từ trải nghiệm của người trong cuộc.
Một bài báo phê phán George Soros đăng trên tờ Jewish World Review đã mở đầu bằng một câu chuyện hài hước thế này:

Trong một bộ phim, diễn viên Peter Sellers đã thủ vai một nhân vật mà chúng ta không biết dùng từ nào để diễn tả hợp hơn từ tâm thần có vấn đề. Thế mà, người ta lại cứ coi ông ta như một thiên tài. Trong cuộc họp báo, phóng viên hỏi ông nghĩ gì về đất nước Trung Quốc. Thiên tài trầm ngâm, cúi đầu rồi chậm rãi trả lời: "Đất nước Trung Quốc toàn là… người Trung Quốc". Đám đông phóng viên ở dưới gật đầu lia lịa, tán thưởng trí tuệ của thiên tài và thì thầm với nhau: "Toàn người Trung Quốc, đúng quá rồi".

Cũng đúng như vậy với người có tiền, khi anh có nhiều tiền, chẳng ai nghĩ anh điên cả. Hoạ chỉ có người nghèo mới điên. Khi một người giàu đến dạ hội với một bộ cánh kỳ quặc thì những người khác sẽ nghĩ rằng chính cách ăn mặc

Sự thật là Soros có quá nhiều tiền, năm 2004, ông đứng thứ 24 trong danh sách những người giàu nhất thế giới, tài sản của ông hiện tại khoảng 9 tỉ USD. Và nhà đầu cơ huyền thoại này lại là một kẻ lắm tiền hay "nói", ông viết đến cả chục cuốn sách từ kinh tế tới chính trị. Tất nhiên, chỉ tên tuổi của nhân vật được coi là "Mozart của thị trường chứng khoán" này đã khiến người ta quan tâm đến những điều ông nói rồi, đặc biệt khi ông nói về tài chính.

Và những điều "thiên tài" nói không hề "ngu ngốc" như câu chuyện mỉa mai trên, điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm mới nhất của ông Mô thức mới cho thị trường tài chính.

"Triết học" của một "triết gia bất thành"

Soros như thường lệ không bắt đầu một cuốn sách bằng cách đi ngay vào vấn đề chính mà ông bắt đầu bằng triết học. Đó là điểm đặc biệt của ông. Soros xây dựng cho người đọc một bộ khung tư duy triết học sau đó mới dùng khuôn mẫu tư duy đó áp vào chủ đề chính, cụ thể trong cuốn sách này là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.

Khung tư duy của Soros vẫn là một lý thuyết mà ông gọi là lý thuyết phản thân (Bản tiếng Việt dịch là phản hồi nhưng tôi cho rằng từ phản thân hợp lý hơn khi nói đến một mối liên hệ mà một vật có với chính nó).

Lý thuyết này cho rằng các hiện tượng xã hội có một cấu trúc khác so với hiện tượng tự nhiên. Trong hiện tượng tự nhiên, người quan sát và hiện tượng độc lập với nhau, diễn trình của hiện tượng không phụ thuộc vào người quan sát. Ví dụ, người quan sát có đứng ở đâu thì trái đất vẫn quay, họ không thể thay đổi thực tế đó.

Nhưng trong hiện tượng xã hội thì ngược lại, người quan sát trực tiếp tác động làm thay đổi hiện tượng chứ không chỉ đơn thuần là nhận thức chúng. Soros gọi đó là chức năng thao túng.

Ví dụ, Karl Marx cho rằng lịch sử là một quá trình tiếp nối các hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa tư bản rồi đến chủ nghĩa cộng sản. Khi đó, ông không chỉ dừng lại ở việc nhận thức quá trình thay đổi mà thực chất đã tác động vào quá trình đó.

Những người đi sau đã ứng dụng học thuyết của ông để xây dựng chủ nghĩa cộng sản ngay cả ở những quốc gia mà tư bản chủ nghĩa mới manh nha hoặc chưa định hình. Như vậy, con người không chỉ nhận thức hiện tượng xã hội mà còn thao túng để thay đổi chúng theo nhận thức của mình.

Nhưng nhận thức con người theo Soros luôn không hoàn hảo và có thể sai, thậm chí triệt để sai. Những nhận thức sai hay ngộ nhận này tác động làm thay đổi hiện tượng xã hội theo những con đường bất định, không đúng với những khung lý thuyết sẵn có mà chúng ta vẫn coi như chân lý. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế học là lý thuyết cân bằng: hành vi con người dựa trên cơ sở thông tin, nhận thức hoàn hảo cho nên giá cả thị trường luôn có xu hướng chạy về điểm cân bằng.

Sự thực là nhận thức không hoàn hảo và luôn sai nên "thị trường rời khỏi trạng thái cân bằng với tần suất cũng ngang với chúng tiến lại trạng thái cân bằng ấy". Khi ấy, thị trường không tuân theo quy luật cân bằng mà tuân theo quy luật bùng-vỡ (boom-bust). Giá cả tăng theo kiểu "bong bóng" rồi nổ tung dẫn tới sụp đổ, phá sản hàng loạt chứ không tự điều chỉnh cân bằng.

Đó chính là khủng hoảng và theo Soros thì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính đặc biệt là cuộc khủng hoảng hiện nay đã diễn tiến theo mô thức đó.

Mô thức tài chính mới của một "kẻ đầu cơ"

Từ triết học, Soros chuyển bước sang lĩnh vực sở trường của mình là tài chính. Nhân vật được mệnh danh là "Robin Hood tài chính" đã lý giải đâu là những ngộ nhận dẫn tới quá trình bùng-vỡ tạo ra cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

Theo Soros, quá trình bùng-vỡ này không chỉ là hệ quả của một bong bóng bất động sản như lý giải của các nhà nghiên cứu khác mà còn của một siêu bong bóng kéo dài 25 năm qua. Mọi bong bóng đều bao gồm một xu thế chủ đạo và một ngộ nhận chủ đạo tương tác với nhau theo kiểu phản thân.

Như nhiều nhà quan sát khác, Soros cho rằng xuất phát điểm trực tiếp tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay là sự hình thành của bong bóng trên thị trường bất động sản Hoa Kỳ. Bong bóng này là kết quả từ xu hướng chủ đạo là việc FED hạ lãi suất liên tục xuống còn 1% để kích thích nền kinh tế sau khi bong bóng công nghệ nổ tung năm 2000 và sự kiện khủng bố 11/9/2001. Lãi suất thấp kéo dài tới giữa năm 2004 đã tạo ra bong bóng bất động sản quy mô lớn.

Tín dụng lỏng và rẻ đã khiến người đi vay "nô nức" vay còn kẻ cho vay thì tìm mọi cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay thế chấp. Người có "xếp hạng mức độ tín dụng kém cũng dễ dàng vay được tiền mua nhà" (các khoản vay dưới chuẩn). Những người có ít hoặc không có giấy tờ chứng minh thu nhập thậm chí không thu nhập, không nghề nghiệp, không tài sản, cũng có thể vay để mua nhà với tài sản thế chấp là chính căn nhà đó.

Cầu nhiều tất giá nhà đất càng được đẩy lên theo kiểu "bong bóng", dẫn tới hiện tượng đầu cơ tràn lan. Đa số "con bạc" trong cuộc chơi này đều ngộ nhận rằng: "giá trị của tài khoản cầm cố nhà đất đó không bị ảnh hưởng bởi sự sẵn lòng cho vay". Giá vẫn lên và tất cả "vẫn phải đứng dậy và tiếp tục khiêu vũ" theo lời chủ tịch CitiBank Chuck Prince. Ngộ nhận rằng giá trị tài sản cầm cố không thể suy giảm với độ mở tín dụng như vậy đã khiến người ta lao vào một cuộc chơi bùng nổ rồi vỡ tan chứ không quay về điểm cân bằng.

Điểm khác biệt hơn trong lý giải của nhà tài chính năm nay 78 tuổi George Soros là ở chỗ ông đã phóng chiếu một tầm nhìn rộng hơn về một bong bóng khác mà ông gọi là siêu bong bóng. Bong bóng này là sự phình đại tín dụng mang tính toàn cầu, bãi bỏ những quy định kiểm soát thị trường chặt chẽ và làm "nảy nòi" hàng loạt những "phương pháp và công cụ tài chính mới, tinh vi đễn nỗi giới điều tiết cũng mất luôn khả năng tính toán những rủi ro đi kèm."

Là "người trong chăn" của giới tài chính, Soros quá thấu hiểu và đưa ra những thông tin rất cụ thể về những công cụ tài chính phức tạp, đan xem nhau đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng dây chuyền ở phố Wall.

Các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản đã tối thiểu hóa rủi ro của họ bằng cách đóng gói chúng lại thành những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (CDOs). Các CDOs này được bán lại cho các nhà đầu tư và trở thành một "cơn cuồng" từ năm 2005. Hơn thế nữa, các quỹ đầu tư phòng hộ (hedge fund) lại bước vào thị trường bảo hiểm cho các CDOs này theo các hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDSs), một hình thức bảo hiểm trong trường hợp xảy ra vỡ nợ.

Rồi khi giá trị của những CDOs bị nghi ngờ, các ngân hàng đầu tư lại đưa chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản và đưa vào những công cụ đầu tư kết cấu (SIVs). Các SIVs cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư này bằng cách phát hành những thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản… Các công cụ tài chính phức tạp mới được phát minh lại dựa trên một cơ sở thiếu lành mạnh là việc cho vay thế chấp địa ốc dưới chuẩn, tất cả đã dẫn tới sự sụp đổ của các "ông lớn" ở phố Wall.

Soros cho rằng, siêu bong bóng hình thành dựa trên xu hướng chủ đạo là những công cụ tín dụng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Ngộ nhận chủ đạo ở đây là sự tin cậy thái quá vào cơ chế thị trường. "Chủ nghĩa thị trường đã trở thành một tín điều thống trị Hoa Kỳ vàơ năm 1980 khi Ronald Reagan trở thành tổng thống Hoa Kỳ và Margaret Thatcher trở thành thủ tướng Anh."

Theo Soros thì chủ thuyết này sai lầm ở chỗ nghĩ rằng thị trường luôn hoàn hảo và trở về cân bằng. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại ở thị trường tài chính, nếu cứ để mặc cho thị trường phát triển với những phương pháp và công cụ tinh vi của nó thì tất yếu "sẽ đi tới những trạng thái cực đoan" như cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

George Soros đã khá đáng yêu khi thừa nhận rằng mặc dù lý thuyết của ông đã được công bố nhiều năm nhưng "không được giới hàn lâm coi là nghiêm túc", và "chính tôi cũng nghi ngờ không hiểu những điều tôi nói có mới và ý nghĩa hay không?"

Ảnh hưởng bởi triết học Popper, Soros khiêm tốn nhận định "chân lý tối hậu nằm ngoài tầm với của con người" và những suy nghĩ của ông "không phải là kết luận mà chỉ là sự khởi đầu."

(theo T.V.N)

=> Tớ đã đọc cuốn này (bản english) thì thấy không mấy lôi cuốn nhưng thấy mấy nhà sách này quảng cáo và ra đời cuốn này trong thời điểm "loạn lạc" lúc này thì có vẻ là câu khách.
Download english version here.
No commerce, pls!!

Sunday, October 5, 2008

Nhật Tân có ông Hành mê "đặc sản" sách...

Theo ông Hành, cà phê giúp con người tỉnh táo về mặt sinh học còn sách giúp con người tỉnh táo về mặt lý học. Ông đã mở quán cà phê sách và dành gần hết đời người để chăm chút, tìm kiếm và lưu giữ những cuốn sách để tự học làm người và dạy con nên người.

Không cầu kỳ, không hoa mỹ, đèn xanh đèn đỏ như các quán nhái Tây, nhái Tầu trên các con phố mặt tiền bạc triệu, quán ông Hành nằm gọn trên đường Âu Cơ, nép mình vào triền đê Nhật Tân.

Người ta đến với ông, chỉ một phần nhỏ để nhâm nhi cà phê mà đa phần sự lôi cuốn của lòng hiếu học, hiếu đọc có trong mình và có trong ông già yêu sách.

Bán của mua sách

Ở vào cái thời “sáng khoai, chiều sắn, tối hớp trà ấm bụng”, ông Hành mê sách là có vấn đề to. Cái tuổi chăn trâu cắt cỏ đâu có cho ông một suy nghĩ xuyên thấu cả cuộc đời là sưu tầm sách để mai sau cho con cháu. Thế mà, cứ như một thứ men say, ông ngược xuôi trọn đời để chắt chiu những cuốn sách cổ nhất thời ông sống.

Gần 50 yêu và đam mê sưu tầm sách, nay ông Hành đã sở hữu tới 3.600 đầu sách quý từ cổ đến kim. Mở ngăn tủ vẫn thơm mùi sơn, ông giới thiệu lịch sử từng cuốn sách như đánh thức từng năm tháng ông đã đọc và thấu nó.

Có những cuốn xuất bản từ những năm 1932 như cuốn Từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh; Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân xuất bản 1945; 42 quyển sách trong bộ Tổng tập văn học Việt Nam của tác giả Đinh Gia Khánh; 10 bản truyện Kiều xuất bản qua các thời kỳ; Bát đại kỳ thư của Trung Quốc: Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, Thủy Hử, Sử ký tư mã thiên...; nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Nga, Pháp: Chiến tranh và hòa bình, Thằng gù nhà thờ Đức bà Pa-ri; Thám tử Sơ-lốc-hôm; Thép đã tôi thế đấy...

Sách của ông khoác lên mình hai chữ “giá trị” không phải ông có trong tay những cuốn kinh điển mà là ở giai đoạn hiện nay khó mà tìm thấy quyển thứ hai.

Hồi xưa, sách xuất bản hạn chế dưới sự đô hộ của chính quyền thực dân. Trên nền giấy gió nâu nâu, có những cuốn được in chìm những hoạ tiết thiên nhiên mà sau một đời người nó vẫn sống động như vừa mới ra lò.

Đi lục tung tất cả các cửa hàng sách khó mà kiếm được những quyển sách như thế. Giá trị văn hoá và nhân văn ẩn hiện trong những trang sách ánh nên vẻ mỹ miều, tẩn mẩn đến thủ công trong công nghệ in thời lệ thuộc.

Lật lại cuộc đời như đầy ải của ông mới thấm hết giá trị từng cuốn sách ông có. Không chỉ là những trang giấy có được mà đó là sự chắt chiu từ một thời ký ức mà khi đốt than, ông vẫn dành dụm tiền mua sách, khi thất nghiệp ông cũng không quên... mua sách...

Cụ bà thân sinh ra ông xưa là người con gái đẹp trong vùng, sống trong gia đình nề nếp gia phong. Ông thừa hưởng con chữ từ bà mẹ vừa đẹp người lại vừa có chữ. Chuyện đàn bà, con gái ngày xưa biết chữ hiếm lắm, như lá thu đọng lại trên từng cọng cành khô.

Hồi ấy, mỗi khi công việc nhà rảnh, bà thường kẹp nách cuốn Lưu Bình – Dương Lễ để đọc. Cậu Hành tóc trái đào thường được mẹ nhờ đọc mỗi khi mỏi mắt. Từ ấy, thú vui đọc cho người khác đã dần hằn trong nếp nghĩ của cậu.

Như cây con bám được đất tốt, cậu đọc mê hồn trận tất cả những gì cậu nhìn thấy, cốt là có chữ. Tưởng chừng nghiệp đèn sách sẽ theo ông suốt cuộc đời để vầng trán cao như một nghệ sĩ kia sẽ chẳng phí hoài giữa bể khổ.

Sau những biến động lịch sử, gia đình thất thế, hết lớp 6, cậu trò nhỏ Nguyễn Thế Hành phải đi kiếm sống. Lao thân đi kiếm sống bằng đủ thứ nghề vừa để thân và vừa nuôi mộng với sách.

Trong thời buổi, bát cơm, tấm áo là thứ mà người đời khát cháy họng, ông lại khát... sách. Nếu không được "uống" nó, ông sẽ héo khô trong tuyệt vọng. Có những giai đoạn phải chui ra chui vào lò than, rồi lang thang đạp xích lô, làm nghề bốc vác thu nhập rất bếp bênh và bèo bọt.

Ông tưởng như mình phải đoạn tuyệt với thú đọc sách vì cuộc sống muôn vàn khó khăn cứ chất lên tấm thân gầy còm và ngày càng oằn xuống theo năm tháng nhưng dường như lại không phải thế!

Chính thời gian này ông lại mua sách, đọc sách hăng say hơn và lại dành nhiều thời gian hơn để đọc sách vì càng đắm chìm vào niềm đam mê ấy, ông như thấy mình được chia sẻ, đuợc an ủi và được tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp trên đường đời nhọc nhằn.

Đời ông sao nhiều cái lạ lùng khó đoán. Ắt hẳn ai mê sách đều có sự hiếu học và rồi sẽ gây dựng công danh quanh chồng sách nhưng ông lại khác. Ông không thể, đúng hơn là thời thế không cho phép ông học hành vì hoàn cảnh gia đình mấy chục miệng ăn trông chờ.

Cái mộng làm thầy giáo của ông cũng lụi đi theo từng bước chân mệt mỏi của ông. Ông sẵn sàng đánh đổ tất cả để có được sách nhưng đành bất lực vì ngồi trên kho kiến thức quý mà đôi cánh đời ông không thể bay lên được.

Cái đói, cái rét đeo bám dai dẳng quanh ông nhưng không kiềm được cái khát vọng si mê sách. Của cải vô hình đã theo bước chân vạn dặm của thần thời gian trôi vào dĩ vãng còn của cải hữu hình vẫn còn văng vẳng bên tai mỗi khi ông nhắc lại cho bạn đọc đang cầm cuốn sách trên tay được đánh đổi bằng gì.

Cuốn Giăng thề của Tô Hoài ông đứt ruột đổi cho người bạn bể cá vàng óng đẹp mê li mà ông coi đó là tài sản quý nhất trong nhà.

Khi cái máu mê nó dâng lên thì nó có thể cuốn trôi bất cứ vật cản nào, kể cả những vật cản khó chọc thủng nhất bên trong tâm khảm mỗi người. May thay, cái máu mê của ông là cái máu nhân văn, đạo đức.

Ông tâm sự: “Quốc gia, tổ chức đã làm được cách mạng thì cá nhân cũng có thể làm tiểu cách mạng nhưng ý nghĩa vô cùng to lớn. Tôi học theo con đường truyền thống rất ít, có thể nói là chỉ bập bẹ thông thạo tiếng mẹ đẻ chứ chưa vành rõ nhưng nhờ sách mà tôi đã mở ra nhiều điều mà người học bài bản không có được”.

Cà phê + sách = nghệ thuật sống

Giờ đây khi đời sống của ông và gia đình đã đi qua thời “bão lửa”, ông bắt đầu có nhiều thời gian hơn chăm chút, nuôi duỡng niềm si mê sách của mình. Ông có nhiều thời gian hơn để la cà, lang thang ở những hiệu sách cũ và mới để lựa chọn những cuốn sách mà ông yêu thích.

Ông đã có một “gia tài” sách của riêng ông và không muốn chỉ giữ nó cho riêng mình mà muốn chia sẻ thú vui đọc sách và sưu tầm sách với những người cùng có niềm đam mêm.

Quán cà phê nhỏ nhỏ mở ngay tại nhà và đấy là nơi mà như ông chia sẻ đó là “không gian của sách”. Ông muốn những người ham mê sách có một không gian yên tĩnh, thoáng đãng để đọc sách, để suy ngẫm, để trao đổi về những cuốn sách hay, những nội dung có giá trị nhân văn cao cả.

Ông cho rằng “thích sách, muốn đọc sách đã là quý lắm rồi nhưng biết đọc sách mới thật sự là biết yêu sách”. Quan trọng nhất khi đọc là phải đọc sâu, từ đó có những suy nghĩ, tìm tòi để phát triển trí tuệ cũng như tâm hồn.

Thế nhưng, người đọc Việt Nam bây giờ lại thường chỉ đọc sách khi có mục đích cụ thể. Bởi thế khi nhiều thanh niên đến uống cà phê quán ông, cứ hỏi dò la có những cuốn kiểu như “Hạt giống tâm hồn” hay “Tuổi 17” không?

Ông vui vẻ giới thiệu những cuốn dầy cộm đặt vuông vắn trên giá nhưng nhiều chàng lè lưỡi, ngao ngán lắc đầu. Theo ông “Văn hoá đọc là gì, là biết cách đọc sách, phải đọc sách theo sở thích cũng như là khi ăn theo khẩu vị. Khi thấy nó ngửi đã thấy ngon, ăn vào càng nhiều và cũng dễ hấp thụ”.

Khi đọc phải có tâm thế của người có văn hoá đọc. Trước nay người ta nói nhiều đến văn hoá đọc không phải là đọc ít, đọc không hăng say mà ẩn chứa trong sau đó là cả một tâm thế đọc. Ngồi vẹo vổng, nằm chổng chân mà đọc là văn hoá chăng?

Khi trước, các cụ muốn đọc một cuốn sách hay sáng tác đều đứng nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên, thắp nén nhang thơm rồi mới dám đọc.

Với hơn 60% “gia tài” sách là sách quý hiếm, ông âm thầm lặng lẽ tạo ra một không gian văn hóa nhỏ để là nơi đi về của nhiều độc giả ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Không gian sách của ông đã từng là nơi giao lưu, gặp gỡ của nhà thơ, nhà văn, giới làm nghệ thuật và cả những người đang quan tâm và bàn luận về văn hóa đọc hiện nay của giới trẻ.

Những buổi nói chuyện, trao đổi như vậy đã khiến không ít người ngỡ ngàng trước tầm trí tuệ và chiều sâu tâm hồn của ông Hành. Có nhà thơ khi biết và đến với quán cà phê của ông để đọc sách để được gặp ông, trò chuyện cùng ông đã không khỏi xúc động phóng bút tặng ngay ông bài thơ để bày tỏ lòng yêu mến và ngưỡng mộ một con người có tâm hồn và nghiệp đam mê sách như ông.

Được biết bác nghèo nhưng yêu sách
Học ít nhưng nhiều mộng văn chương
Chữ nghĩa chẳng chê người áo rách
Không là trọc phú - vẫn cao sang.

Thời buổi người ta chỉ mê tiền
Ai mà mê sách có mà điên
Nhưng thôi thời thế nay như thế
Ai người địa ngục, ai là tiên.


Mở quán cà phê mong kiếm sống
Ai vào thưởng thức sách cổ kim
Góc khuất nhìn đời con mắt sáng
Luật đời “hiểu lẽ” biết lặng im.

Để sách giãy bày chuyện xưa nay
Cà phê tỉnh mộng giữa ban ngày
Nhật Tân có quán “Cà phê - Sách”
Ai thích thì vào phút giải khuây

Ông may mắn có một người bạn phục cái tâm của ông như tác giả bài thơ Nguyên Khôi. Nhưng cả một đời người đã cúi rạp tấm thân nâng đỡ sách, nên chắc ông không có gì phải hổ thẹn cho Nguyễn Thế Hành đi vào thơ.

* Đức Chính – Thanh Duyên (04/10/2008)
[From TuanVietNam]

Friday, October 3, 2008

THE FALL OF NORTHERN ROCK - Sự sụp đổ của Northern Rock




Tên sách: THE FALL OF NORTHERN ROCK (The Insider’s Story of Britain’s Biggest Banking Disaster)
Sự sụp đổ của Northern Rock (Câu chuyện bên trong thảm họa ngân hàng tồi tệ nhất Anh Quốc)
Tác giả : Brian Walters
Phát hành: Harriman House
Dịch giả: Hùng Anh. Phương Thảo.
Nhà xuất bản: Nxb Lao động Xã hội
Giá bìa: 53.000 VNĐ
Ngày xuất bản: 09 - 2008

Giới thiệu về nội dung

Câu chuyện kinh hoàng về thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử ngân hàng Anh

“Tháng 9 năm 2007, một bức tranh hổn loạn ở tất cả các chi nhánh của Northern Rock đã minh chứng cho lịch sử thấy điều gì sẽ xảy ra khi niềm tin của dân chúng vào một ngân hàng biến mất. Nếu sự sụp đổ của Northern Rock đã làm được điều gì đó, thì đó chính là bài học để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Brian Walters đã làm việc trong ngân hàng được 36 năm. Anh bắt đầu sự nghiệp tại ngân hàng Barclays từ năm 1971, sau đó làm trưởng phòng điều hành tại chi nhánh ở Coventry năm 1992 rồi chuyển xuống Leeds năm 1999 với vị trí trưởng bộ phận kinh doanh ở thành phố West Yorkshire. Năm 2005, anh tự hào vì được làm việc cho Northern Rock. Đến năm 2007, anh vô cùng thất vọng khi chứng kiến sự sụp đổ của ngân hàng.

Một số những hình ảnh đáng nhớ nhất của năm 2007 - nếu không nói là của một thập kỷ - là hình ảnh hàng ngàn người xếp hàng lần luợt tại trước cửa các chi nhánh của hệ thống ngân hàng Northern Rock để rút tiền. Không ai có thể tin được điều này lại có thể xảy ra ở nước Anh vào thế kỷ 21.

Sự sụp đổ của Northern Rock nói về quá trình phát triển của Northern Rock, từ một đơn vị tài chính được tin tưởng và nhiều người mơ ước nhất nước Anh lại bị sụp đổ một cách dễ dàng. Cuốn sách cho chúng ta thấy một Northern Rock trước, trong và sau khủng hoảng. Cuốn sách cần thiết cho bất kỳ ai muốn tìm hiểu về sự thật đằng sau thành công cũng như việc rút tiền hàng loạt xảy ra lần đầu tiên ở Anh vào năm 1866.

Mục lục:

Lời giới thiệu

Bắt đầu tại ngân hàng Northern Rock

Lược sử ngân hàng Northern Rock

Bộ phận tài chính thương mại

Một khởi đầu không thuận lợi

Tiếp tục tăng trưởng

2006 - một năm của lạc quan và tăng trưởng

Những dấu hiệu khó khăn đầu tiên

Khoảng chi ngắn

Phía sau bức màn

Rút tiền hàng loạt

Hậu quả tức thì

Ban giám đốc Northern Rock bị thảm tra

Cố tìm một giải pháp cứu nguy

Giải pháp ưa thích - tiếp quả

Tạm biệt Northern Rock

Thông báo quốc hữu hoá

Sai ở đâu?
- Mô hình kinh doanh từ an toàn chuyển qua rủi ro khi tốc độ tăng tiền gửi (hơn 2 lần) thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng các khoản vay (6 lần). Việc thiếu nguồn vốn cho vay đòi hỏi NR phải đi vay và NR đã sử dụng nguồn vay ngắn hạn trên interbank để cho vay thế chấp dài hạn.
- Muốn phát triển nhanh nên bất chấp rủi ro khi thị trường phát triển quá nóng nhưng NR vấn tiếp tục tăng tốc độ phát triển tín dụng.
- Ban kiểm soát (nội bộ lẫn chính phủ) không giám sát chặt chẽ.
- Financial Services Authority, Bank of England và Treasury Secretary không thống nhất trong biện pháp hỗ trợ NR. Lý do chính yếu là lo ngại "tâm lý ỷ lại" (moral hazard)
- Ngoài ra, sự sụp đỗ của NR còn được "hỗ trợ" bởi truyền thông khiến cho người dân, nhà đầu tư bất an.

Theo dòng thời gian.


Nhận xét từ TuanVietNam:
Chương trình “Tạp chí kinh tế cuối tuần” trên VTV1 gần đây đã đề cập đến các cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đang kéo theo nguy cơ sụp đổ cận kề của những ngân hàng hàng đầu tại Mỹ kể cả những ngân hàng khổng lồ từng được coi là pháo đài không thể công phá như Fannie Mae và Freddie Mac.

Trong danh sách những ngân hàng sụp đổ năm 2007, có cả cái tên Northern Rock - một ngân hàng từng là biểu tượng của thành công, niềm tự hào của Anh Quốc.

Và thảm họa lụn bại đó cũng chính là nguyên cớ cho sự ra đời của cuốn sách The fall of Northern Rock (Sự sụp đổ của Northern Rock) của tác giả Brian Walters. Trong cuốn sách, ông phân tích nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Northern Rock - một ngân hàng từng là biểu tượng của thành công.

Nothern Rock – thuở bình minh rực rỡ

Northern Rock Building Society được thành lập vào ngày 08/07/1965, vốn là một tổ chức chuyên cấp tín dụng để xây nhà có trụ sở đặt tại Newcastle – vùng đông bắc nước Anh. Ban đầu, nó chỉ là một ngân hàng rất nhỏ so với Halifax, ngân hàng cùng lĩnh vực. Northern Rock, vào thời điểm năm 1965, đứng thứ 60 trong bảng xếp hạng các tổ chức cung cấp tín dụng xây dựng.

Sau 40 năm hoạt động, nhờ vào việc tiếp nhận và mua lại các quỹ đầu tư cũng như đa dạng hóa hình thức kinh doanh và bước chân vào lãnh địa cho vay, cho thuê nhà, Northern Rock trở thành một trong 10 ngân hàng cho vay thế chấp lớn nhất nước Anh, sau khi tiếp quản thành công Tổ chức tín dụng North of England có trụ sở tại Sunderland với hơn 300.000 các tài khoản đầu tư, 43.000 người cho vay và tổng số tài sản lên tới 1.500 triệu bảng Anh với tổng tài sản lên tới 10 tỉ bảng.

Năm 2006 lợi nhuận của ngân hàng này đạt 1,18 tỉ bảng Anh và là ngân hàng cho vay tín chấp lớn thứ 5 tại Anh. Ngoài ra Northern Rock còn là nhà tài trợ chính thức cho CLB Bóng đá nổi tiếng Newcastle United.

Brian Walters cho rằng, Northern Rock sở dĩ đạt được đạt được mức tăng trưởng cao là bởi: Northern Rock đã nỗ lực để đứng vững trong khi các tổ chức tài chính tương tự bị các đại gia trong làng ngân hàng mua lại. Vốn đầu tư ban đầu thấp, tập trung vào thị trường có lợi thế, dịch vụ sáng tạo và cạnh tranh.
Northern Rock là một ngân hàng thành công vượt qua cả tiếng tăm, quy mô của nó và đã từng được các nhà phân tích tài chính London hết lời ca ngợi. Nhưng nguyên nhân nào dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng vào tháng 10 năm 2007 và dẫn tới việc ngân hàng này bị quốc hữu hóa vào tháng 2 năm 2008?

… Những bước đi ẩn chứa hiểm họa

Trong The Fall of Northern Rock, Brian Walter – từng là giám đốc một chi nhánh của ngân hàng này tại Leeds - đã thuật lại diễn biến và những sự kiện dẫn tới việc ngân hàng bị quốc hữu hóa.

Đặc biệt ông đã cho người đọc thấy được suy nghĩ tình cảm của các nhân viên Northern Rock trước, trong và sau cuộc khủng hoảng; cũng như những phân tích của riêng ông về nguyên nhân và cách để tránh một thảm họa tương tự.

Mô hình kinh doanh của Northern Rock như mọi ngân hàng khác là thu hút tiền gửi vào và dùng số tiền đó cho vay thế chấp. Nhưng việc huy động vốn không phải là một quy trình đơn giản. Mặc dù thực hiện nhiều biện pháp thu hút tiền gửi tiết kiệm, lượng tiền gửi tại Northern Rock khá thấp trong khi nhu cầu vay tại ngân hàng luôn lớn hơn nhiều lần so với các khoản tiền gửi.
Nhiều năm trước điều này đã khiến Northern Rock để vuột mất nhiều cơ hội đẩy mạnh kinh doanh, vì theo các quy định của Ngân hàng Trung ương Anh, các ngân hàng chỉ được cho vay số tiền mà họ thu được từ nguồn tiền gửi, và rõ ràng là, nếu một ngân hàng không thể thu hút nhiều tiền gửi vào thì nó cũng không thể tăng số tiền cho vay ra.

Nhưng điều này đã thay đổi. Trong khi những yêu cầu về nguồn vốn dự trữ cho mỗi ngân hàng là khá chặt chẽ, thì lại chẳng hề có một quy định nào về mức tiền gửi dự trữ trong ngân hàng cần có để phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng đó.

Vì thế các ngân hàng giờ đây được phép cho vay nhiều hơn rất nhiều số tiền gửi tiết kiệm mà nó thu hút được. Tính trung bình thì số tiền cho vay gấp khoảng 6 lần so với số tiền gửi mà một ngân hàng đang nắm giữ. Nhưng Northern Rock còn đi xa hơn thế.

Theo nhận định của Northern Rock thị trường cho vay thế chấp là khá lành mạnh. Vì thế những gì Northern Rock làm là gói một số các khoản vay thế chấp lại vào với nhau và bán những khoản thu nhập tương lai này cho các nhà đầu tư dài hạn. Northern Rock làm việc này thông qua một công ty có tên là Granitte – và quá trình này được gọi là “chứng khoán hóa” hay “trái phiếu hóa”.

Việc trái phiếu hóa các khoản vay đã cho phép Northern Rock mở rộng việc cho vay. Theo định kỳ, nó sẽ bán các khoản thế chấp bằng cách chứng khoán hóa và đổi lại có tiền để tiếp tục cho vay.

Northern Rock thường bù đắp khoảng thời gian giữa những hợp đồng chứng khoán hóa bằng cách vay ngắn hạn từ các ngân hàng khác, được gọi là thị trường tiền mặt bán buôn. Northern Rock đã làm như vậy trong nhiều năm và quy trình này tỏ ra rất hiệu quả.

Khi một ngân hàng vay tiền trên thị trường tiền tệ họ phải trả mức lãi suất liên ngân hàng được gọi là LIBOR (London Inter-bank Offered Rate – tỉ lệ lãi suất cho vay liên ngân hàng London) – thường cao hơn một chút so với lãi suất cơ bản của ngân hàng TW Anh.

Ví dụ vào 2/01/2007 tỉ lệ lãi suất LIBOR trong 3 tháng (lãi suất áp dụng cho vay trong 3 tháng liên tiếp) là 5,32% trong khi tỉ lệ lãi suất cơ bản của ngân hàng TW Anh là 5,00%. Sự dao động giữa 2 tỉ lệ này tác động tới khả năng sinh lời của Northern Rock.

Mô hình huy động vốn này có nghĩa là Northern Rock bán một nửa hợp đồng cho vay cho các nhà đầu tư hơn là nắm giữ nó cho tới khi đáo hạn. Và đây chính là mô hình kinh doanh hoạt động hiệu quả của Northern Rock.

Chiến lược huy động vốn của ngân hàng là 25% lấy từ khoản tiền gửi tiết kiệm, 25% từ thị trường tiền tệ bán buôn và 50% từ việc chứng khoán hóa. Năm 2005 mô hình huy động vốn này – vận hành rất trơn tru đã giúp cho Northern Rock đạt được mức tăng trưởng hàng năm là 20%.

Khó khăn nào sẽ tới khi lãi suất liên ngân hàng (LIBOR) trên thị trường tiền mặt Anh tăng cao? Và một khi thị trường này đóng băng do sự lo ngại của chính phủ về sự an toàn của hệ thống ngân hàng? Hay khi nền kinh tế suy giảm do chịu tác động của sự suy giảm toàn cầu? Nếu thị trường bất động sản không họat động sôi động nữa?...


My comment:
- Sách viết khá hay, thuật ngữ dịch khá chính xác và có kèm english term ở cuối trang.
- Nội dung thể hiện được tình hình khó khăn của NR và các ngân hàng ở châu Âu trong thời điểm khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn (subprime mortgage turmoil) (các bài báo trong thời điểm tháng 8/2007 đa phần thể hiện khó khăn trên thị trường Mỹ).
- Giá bán rẻ. (Amazon $11 mà Vietnam chỉ có 53k và discount 20% nữa)

Tuesday, September 30, 2008

Đọc sách - Reading

Nói chung, không có một quy chuẩn nào về chuyện đọc sách, có quyển sách (nhất là nếu được coi là kinh điển) thì nên đọc kĩ, nhưng nhiều quyển thì chỉ cần đọc qua lấy ý chính, mà có khi chỉ cần nghe người khác nói lại là đủ. Cái này là cả một nghệ thuật.

Đọc quá kĩ thì mất thời gian mà chưa chắc hiệu quả, bởi vì, cái người ta nghĩ ra mình cũng có thể nghĩ ra, chưa chắc cần phải đào bới quá kĩ nhưng cái người khác đã đào bới, thay vì thế mình chỉ cần nắm ý đồ, rồi tự dùng tư duy của mình để bắt theo mạch của tác giả để suy nghĩ phân tích tiếp, có khi lại ra nhiều cái hay hơn. Vì thế, có khi một quyển sách vừa đọc các tên của chương mục đã hiểu viết gì ở trong, hay có khi chỉ cần đọc tên quyển sách là đã có thể nắm được vấn đề.

Tôi trước khi đọc một quyển sách, đều cố gắng dự đoán xem mình cần tìm những gì từ nó. Sau đó, khi đọc mỗi một chương mục, tôi đều tự tư duy xem họ viết gì ngay sau khi nhìn thấy tít của chương mục đó, nếu cảm thấy vấn đề đấy đơn giản mình hiểu ngay được, thì tôi chỉ đọc lướt qua hay thậm chí không đọc nội dung của nó nữa để chuyển sang chương khác. Ví dụ quyển "1000 điều tâm đắc của Dale Carnegie" tôi hầu như chỉ lướt qua các cái tít của từng điều, không đọc ví dụ và phân tích. Nếu mà mình cảm thấy chưa hiểu hoặc chưa đủ, tôi sẽ đọc cẩn thận, và đối chiếu với những cái mình đã nghĩ trước với cái mình vừa hiểu được.

Nhiều khi chỉ cần nghe ai nói về một quyển sách nào đó, là ta đã nắm được vấn đề, không cần phải tìm đọc. Đơn giản vì không ai có thể đọc hết sách trên đời, nên mới cần thảo luận học hỏi lẫn nhau, và các forum trên mạng phải chăng cũng vì một mục đích đấy mà tụ hội được bao con người uyên bác.

Nhưng phải rất coi chừng với chuyện đọc lướt hay chỉ nghe người khác nói. Đó là vấn đề nguyên bản. Ví như người ta vẫn chẳng tranh cãi suốt về chuyện bản gốc của các dị khảo. Giả sử, nghe ai nó về Khổng chẳng hạn từ anh A, thì đó đã là Khổng của A, mà nếu A lại nghe từ B, thì đó là Khổng của B và A, rồi cứ như thế truyền miệng, cuối cùng qua vài đời F lai, Khổng chắc thành cái gì rồi chứ và nếu một sự nhầm lẫn tam sao thất bản tai hại về tên tuổi, có khi nó thành ông Kổng, hay ông Cống nào đó chẳng ai nhận ra nữa.

Hôm xem chương trình gì đó của chị Tạ Bích Loan về những người nước ngoài yêu Việt Nam, có một bà Lady Bolton người Mỹ nghiên cứu về Cụ Hồ, nói một vấn đề làm ai đó sẽ giật mình. Đó là, Cụ Hồ trong bản tuyên ngôn 2-9-45 đã thay đổi một chút trong lời mở đầu mà mọi người vẫn cho là Bác lấy nguyên trong Tuyên ngôn của Mỹ. Trong bản tuyên ngôn Mỹ cách đây 400 năm, thì là "mọi đàn ông (all men) sinh ra đều bình đẳng" vì cái hồi đấy phụ nữ đâu có quyền gì, về sau khi có sự bình đẳng cho phụ nữ, nên cái từ men nó mới đại diện cho con người nói chung. Bác đã rất tiến bộ khi đã chuyển thành: all men  mọi người, quả là rất hợp lý vì "giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh" mà, các bà cũng ghê lắm chứ.

Lại một ví dụ nữa về Cụ Hồ. Lời dạy nguyên gốc của Bác cho ngành y: "Lương y PHẢI như từ mẫu" về sau bị mất đi từ "phải". Lương y làm sao mà là từ mẫu được, mà phải như từ mẫu chứ, cái từ PHẢI nghe có vẻ cưỡng ép đầy trách nhiệm ấy xét ra cũng có ý nghĩa và chuẩn xác ghê gớm lắm, nghĩ ra thấy thật đắt.

Vì vậy, việc tìm đọc kĩ càng và nguyên gốc cũng rất cần thiết, đặc biệt là các sách được coi là kinh điển cho một lĩnh vực nào đó. Tôi nhận ra, trong một đống sách mình mua về một vấn đề/lĩnh vực nào đó, thì hoá ra, chỉ có độ 1-2 quyển là cơ bản, và các quyển còn lại đều chỉ là ăn theo, dựa vào đó mà viết thêm. Chẳng hạn Đắc Nhân Tâm cũng có thể coi là kinh điển trong cách đối nhân xử thế trong thời hiện đại. Nhờ đã đọc kĩ nó, nên các quyển ăn theo về sau, tôi chỉ đọc lướt qua, ví dụ như "1000 điều tâm đắc của Dale". Thế nhưng, riêng cái chuyện xác định thế nào là kinh điển cũng ối việc ra, vẫn cần cái linh cảm nào đó, một sự linh cảm có thể rèn luyện bằng kinh nghiệm.

Riêng cái cảm giác là có nên đọc kĩ, đọc lướt hay bỏ qua một quyển sách hay một chương mục đã đòi hỏi một sự không đơn giản rồi, cần rèn luyện và kinh nghiệm. Một người thầy của tôi có nói, phải mất nhiều tiền ngu mua sách thì mới biết cách mà chọn sách, mà để biết cách đọc sách còn lâu hơn. Thầy còn thú thật là đọc từ năm còn nhỏ mà đến gần 40 mới gọi là tạm biết cách đọc sách, sau khi đã đọc nhầm rất nhiều sách

Trên tôi đã nói về cách tiếp cận với sách, hay là cách mở sách, bây giờ là đến lúc gập sách lại. Một lần đọc trên tạp chí Tia sáng (số ??) có một bài của GS. Hồ Ngọc Đại viết về cách đọc sách. Ông có viết rằng nếu bảo sinh viên tóm tắt một quyển sách trong 1 trang thì ai cũng làm được, nhưng khi bảo tóm tắt trong một vài câu thì đã khó khăn hơn, mà tóm tắt trong 1 câu thì hầu như ít người làm nổi, mà tóm tắt trong một từ ngữ thì đúng là hầu như không ai thực hiện được (trong đám học sinh của ông). Nghĩ quả là có lý trong cái sự đọc sách ấy, khi ta đã hiểu được sách, thì làm sao để ghi nhớ rồi có lúc mang ra vận dụng.

Tôi có đọc đâu đó câu nói: “Ngày này, người ta không còn cố gắng để ôm trọn kiến thức, mà chỉ cố gắng chèo chống trong đại dương kiến thức”. Nếu ai đã học Research methods, chắc hẳn biết tree-diagram (tương tự như sơ đồ dàn ý), một cái xương sống cho toàn bộ nghiên cứu. Việc ghi nhớ thông tin cũng thế, ta cần tạo một tree-diagram cho một kiến thức hay sách. Từ việc tóm tắt thành một trang với khá nhiều thông tin nhánh, ta tiếp tục tóm tắt hay tổng quát trong một vài câu, rồi thêm một bước nữa là từ ngữ, ta đã thiết lập được một tree-diagram quản lý thông tin. Quá trình lấy thông tin ra lại sẽ là quá trình ngược lại, từ một từ hay ngữ khoá (key word or phrase) ở cấp 1 của tree-diagram, ta sẽ khai triển được bước cao hơn là các câu khoá, rồi đoạn khoá, từ đó cứ thế phát triển, ta có thể lần ra toàn bộ quyển sách hay kiến thức. Việc tóm lược thông tin thành các từ ngữ khóa theo một hệ thống nhiều cấp, nhiều tầng là rất cần thiết. Việc này có thể được liên tưởng với việc dựng hay vẽ một cái cây, phải bắt đầu từ gốc hay thân, rồi cành rồi mới đến lá. Làm gì cũng phải có hệ thống, đọc sách và nhớ sách càng phải thế.

Như vậy việc mở sách ra (phân tích) rồi đóng sách vào (tổng hợp) cũng lắm chuyện lắm, chẳng có một quy tắc nhất định nào cả, hoàn toàn phụ thuộc vào chính khả năng và kinh nghiệm của người đọc, túm lại là phải "nghệ thuật", không bàn hết nổi.

(Nguồn: chungta.com)

Một bài viết khá hay nên post lên đọc chơi, ai lựơm được gì từ bài này thì là tùy mỗi người đọc.

Friday, September 26, 2008

DẦU MỎ, TIỀN BẠC VÀ QUYỀN LỰC - The epic quest for Oil, Money and Power



Tên sách: DẦU MỎ, TIỀN BẠC VÀ QUYỀN LỰC
Tác giả: Daniel Yergin
Dịch giả: Kiều Oanh, Thu Trang, Vân Nga
Phát hành: Alphabooks và NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật
Giá: 289.000đ
(Giảm giá 20% tại Nhà sách Sách Hà Nội (đường MinhKhai - HCM) và giảm 15% tại Nhà sách Quỳnh Mai (đường MinhKhai - HCM), giảm giá 30% tại nhà sách Kim Dung trên đường Trần Huy Liệu, HCM)

Thật sự đây là cuốn sách gây nhiều chú ý cho tôi kể từ khi nó còn đang trong vòng bản dịch tiếng Việt. Tôi cũng đã thử tìm bản free của phiên bản năm 1991 của nó nhưng vẫn chưa tìm ra. Vi vậy chỉ post lên đây cho mọi người xem những ý kiến đánh giá của các web để hiểu thêm về DẦU MỎ. (thật sự lúc mới đầu, thấy Alpha Book treo giá 199k đã thấy nhiều rồi, vậy mà bây giờ giá chính thức 289k ->tiền đâu mà mua...)


Ngày 9/11 -> mới tậu nó xong, có điều chưa biết khi nào mới đọc hết để comment
Lưu ý: người giới thiệu chưa đọc


From TUAN VIET NAM

Nếu để tóm lược (một cách khó khăn) cái nội dung đồ sộ đến mức đáng sợ của cuốn Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, thì chúng ta có thể gọi nó là "lịch sử thế giới cận đại và hiện đại qua lăng kính dầu mỏ".

Dày 1202 trang (bản tiếng Anh của NXB Free Press dày 928 trang), Dầu mỏ, tiền bạc và quyền lực là công trình thứ ba của tác giả Daniel Yergin khiến chúng ta phải kinh ngạc về sức viết và tầm tư duy của ông. Hai cuốn trước đó là Nền hòa bình bị phá bỏ (Shattered Peace, 1977) - được coi là tác phẩm kinh điển về nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh - và Tương lai năng lượng (Energy Future, 1979) - một cuốn sách nghiên cứu thuộc hàng best-seller.

Bạn đọc Việt Nam hẳn cũng biết đến một Daniel Yergin là tác giả của cuốn sách nổi tiếng về lịch sử kinh tế thế kỷ 20 Những đỉnh cao chỉ huy (Commanding Heights, 1998), viết chung với Joseph A. Stanislaw.

Viết sử bằng dầu mỏ

Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực khắc họa toàn cảnh cuộc chiến của cả thế giới nhằm tranh giành tiền bạc và quyền lực xung quanh vấn đề dầu mỏ, và vẽ nên một bức tranh khổng lồ về thời đại của chúng ta: thời đại dầu mỏ.

Như một phong cách riêng của tác giả Daniel Yergin, cuốn sách trước hết là một tác phẩm nghiên cứu, nhưng nó cũng là một tập hợp của vô vàn chuyện kể lịch sử thú vị với những nhân vật lịch sử đầy tính cách.

Yergin dẫn chúng ta đi ngược dòng thời gian về những ngày xa xưa, khi dầu mỏ còn ngủ yên trong lòng đất với những sức mạnh chưa được khám phá. Đã hàng thế kỷ, “người ta hầu như chỉ dùng những chiếc bấc đèn đơn giản nhúng vào mỡ động vật hay dầu thực vật. Còn với những người có tiền, mỡ cá nhà táng đã được coi là chuẩn mực của dầu thắp sáng chất lượng cao”. Nhưng số lượng những đàn cá voi, cá nhà táng ở các đại dương cứ vơi dần…

Thế rồi xuất hiện những nhân vật đầu tiên được dầu mỏ ghi danh: George Bissell, Silliman, Abraham Gesner, Edwin L. Drake. Họ là những người, bằng trực giác, ý chí và cả sự mạo hiểm của mình, đã bắt đầu xác định cái vai trò ghê gớm của dầu lửa: tạo năng lượng.

Cả thế giới sẽ được thắp sáng từ đây. “Đó là ánh sáng của thời đại… thứ ánh sáng mà thời Trung cổ không thể có… Dầu mỏ tạo ra một thứ ánh sáng đẹp đẽ, thứ ánh sáng sáng nhất và cũng rẻ tiền nhất trên thế giới”.

Và có thể coi rằng, kể từ ngày 27/8/1859, khi giếng dầu đầu tiên được khoan ở Pennsylvania, cả thế giới đã bước vào một thời đại mới mà ở đó, nhân loại phụ thuộc vào dầu mỏ. Không phải vàng, mà chính là vàng đen - tức dầu mỏ - đã làm thay đổi vận mệnh của các quốc gia nói chung.

Dầu mỏ - chất xúc tác cho các xung đột của thời đại

Dầu mỏ dẫn đến sự hình thành tờ-rớt (trust) đầu tiên của thế giới - tập đoàn Standard Oil của nhà tài phiệt Mỹ Rockefeller. Và cũng chính sức mạnh khủng khiếp mà dầu mỏ mang lại cho Standard Oil khiến chính quyền của Tổng thống Roosevelt phải tiến hành khởi kiện chống Standard Oil, tiến tới giải thể tờ-rớt khổng lồ này.

Dầu mỏ là nguyên nhân sâu xa của các cuộc thế chiến tranh giành quyền lực. Khi Hitler trở thành Thủ tướng Đức (năm 1933), nhà độc tài mau chóng thực hiện một chiến dịch sản xuất ôtô mà theo ông ta là “bước ngoặt trong lịch sử giao thông của Đức”.

Để làm cho cả châu Âu phải phụ thuộc vào nước Đức và nhà lãnh đạo tối cao của nó, Hitler khẩn trương xây dựng bộ máy chiến tranh gồm máy bay ném bom, máy bay chiến đầu, xe tăng, xe tải. Vấn đề là tất cả những phương tiện này đều cần có dầu để chạy động cơ…

Một trong những mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Hitler khi xâm lược Liên Xô là nắm giữ các mỏ dầu vùng Caucasus. Cũng trong Thế chiến II, quân đội Nhật tấn công Trân Châu Cảng để bảo vệ cánh quân bên sườn của mình khi họ đang tìm cách chiếm lĩnh nguồn dự trữ dầu ở khu vực các nước Đông Ấn.

Dầu mỏ là động lực thúc đẩy cựu tổng thống Iraq Saddam Hussein đưa quân xâm chiếm Iran và sau đó là Kuwait, gây ra Chiến tranh Vùng Vịnh. Đằng sau hành động xâm chiếm này là tham vọng biến Iraq thành cường quốc dầu lửa thế giới. Dầu mỏ, kết hợp với vũ khí hạt nhân, sẽ đưa Iraq thành một siêu cường quốc.

Và cũng chính vì mối đe dọa từ việc lượng dầu dự trữ của hành tinh trở thành kho báu của Iraq, mà lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ và Liên Xô đã hợp tác, cũng như các nước Ảrập và phương Tây đã cùng tham gia trong một cuộc chiến quy mô lớn, tốc độ bão táp, nhằm đẩy lùi Iraq.
Trong Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực, độc giả sẽ được “gặp” hàng chục nhân vật lịch sử của thế giới. Từ những người liều mạng “đổ xô đi tìm dầu” để sống và chết vô danh vì giấc mơ tiền bạc, đến những "ông vua không ngai" huyền thoại nhờ dầu mỏ.

Từ nhà tỷ phú Rockefeller – ông trùm của đế chế Standard Oil - đến gia tộc Do Thái tiếng tăm Rothschild và anh em nhà Nobel (trong đó có Alfred Nobel, cha đẻ của thuốc nổ, người đã dành trọn tài sản của mình cho giải thưởng Nobel danh giá sau này) - những người làm giàu trên đất Nga nhờ dầu lửa. Từ cựu thủ tướng Anh Winston Churchill đến Quốc vương Ảrập Xêút Ibn Saud. Từ cựu tổng thống Mỹ George Bush (cha) đến cố tổng thống Iraq Saddam Hussein.

Cách viết sống động, xác thực của Daniel Yergin khiến độc giả như được chứng kiến những khoảnh khắc lịch sử. Lịch sử vang tiếng khi Rockefeller - người thường bị xem như tên tài phiệt tư bản hám tiền, tàn bạo, dùng đủ thủ đoạn để nuốt chửng những công ty nhỏ, tiến tới hình thành một đế chế dầu lửa thống nhất – tuyên bố: “Hãy đem đến cho những người nghèo khổ thứ ánh sáng giá rẻ!”.

Standard Oil - "con bạch tuộc xấu xa" - ở một khía cạnh nào đó chính là công ty đã cung cấp vốn, cách thức tổ chức và công nghệ tiên tiến, cũng như gánh lấy những rủi ro cần thiết để khai mở một thị trường dầu mỏ toàn cầu và phục vụ cho thị trường đó.

Lịch sử cũng làm chúng ta bồi hồi khi Churchill quyết định nước Anh phải "xây dựng sức mạnh hải quân thống trị của mình dựa trên dầu mỏ", đồng thời khẳng định: "Quyền lực chính là chiến lợi phẩm của cuộc phiêu lưu này". Hay là khi George Bush (cha) tuyên bố: "Cuộc xâm lược sẽ không kéo dài đâu", trước sự kiện Iraq đưa quân vào Kuwait và chiến tranh Vùng Vịnh bùng nổ.

Dầu mỏ cũng chính là nguyên nhân của những cuộc khủng hoảng kinh tế làm chấn động cả thế giới, vào các năm 1970-1973, 1979, 1990. (Thời điểm cuốn sách này được xuất bản lần đầu là năm 1991. Nếu bây giờ mới ra mắt thì nó chắc chắn sẽ được tác giả bổ sung thêm một chương về cuộc suy thoái kinh tế hiện nay của thế giới, cũng lại bắt đầu từ lạm phát giá dầu).

Nhờ dầu mỏ, những nước thuộc địa cũ, những quốc gia bé nhỏ ở Trung Cận Đông, mới nổi lên thành một thế lực mới trong nền địa chính trị toàn cầu. Nhờ địa vị "người đi đầu trong công nghiệp dầu mỏ", Mỹ vươn lên thành một cường quốc của thế giới về công nghiệp - kinh tế - chính trị.

Tác giả Daniel Yergin đã khái quát hóa vai trò chế ngự thế giới vật chất của dầu mỏ bằng những thông tin thú vị và có sức thuyết phục mạnh mẽ: “Quyền lực của một con chip máy tính ngang ngửa với quyền lực của một thùng dầu… Chừng nào con người còn chưa tìm được một nguồn năng lượng thay thế khác thì dầu vẫn còn tác động sâu rộng tới nền kinh tế toàn cầu; những thay đổi lớn về giá dầu có thể thúc đẩy sự phát triển kinh tế hay ngược lại, dẫn đến lạm phát và suy thoái kinh tế”.

Với riêng độc giả Việt Nam...

… thì Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực là cuốn sách công phu nhất nghiên cứu về dầu mỏ dưới khía cạnh địa chính trị. Nói cách khác, đây là cuốn sách duy nhất và đầy đủ nhất cho đến nay mang đến cho độc giả một bức tranh toàn cảnh về ngành công nghiệp dầu mỏ, tầm quan trọng chiến lược của dầu mỏ trong quá khứ, hiện tại và cả tương lai.

Không chung chung như những bài báo hay mục điểm tin thời sự truyền hình, cũng không chỉ xoáy vào khía cạnh kỹ thuật – công nghệ như những tài liệu mà sinh viên các ngành hóa chất, hóa dầu vẫn được học, Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực cung cấp kiến thức một cách toàn diện cho độc giả Việt Nam, giúp chúng ta có cái nhìn sâu và rõ ràng nhất vào công nghiệp dầu mỏ và thời đại dầu mỏ.

Cuốn sách thích hợp cho tất cả các độc giả có nhu cầu hiểu “vì sao tin về giá dầu tăng lại luôn được đăng tải trên trang nhất các báo?”, “vì sao ngoài dầu mỏ, không có một loại hàng hóa nào khác trên thế giới (kể cả vàng) mà mỗi lần giá cả biến động mạnh lại khiến không chỉ nước công nghiệp phát triển như Mỹ mà cả một nước đang mở cửa như Việt Nam cũng bị ảnh hưởng?”

Điều đặc biệt hơn là cuốn sách được viết bởi một học giả kiêm một người kể chuyện. Vì thế cho nên nó chứa đầy những câu chuyện và thông tin thú vị, hấp dẫn. Độc giả sẽ có cảm giác như mình bị hút vào dòng chảy của một cuốn phim kỳ diệu về lịch sử thế giới, và quả thật là tác phẩm cũng đã được hãng PBS dựng thành phim cùng tên.

Bộ phim này đoạt giải Eccle cho tác phẩm không hư cấu (non-fiction) xuất sắc năm 1992. Cũng năm đó, cuốn sách Dầu mỏ, Tiền bạc và Quyền lực được trao giải Pulitzer.

* Đoan Trang


From AlphaBook

Dầu mỏ được coi là động lực phát triển và song hành cùng thế giới trên con đường tiến tới văn minh, song nó cũng là nguyên nhân gây ra biết bao biến động chính trị. Những cuộc tranh giành quyền lực, chết chóc đau thương cũng có xuất phát điểm từ nguồn vàng đen này...

Từ cuối thế kỷ XIX, hết thế kỷ XX cho đến hôm nay, dầu mỏ đều ít nhiều là tác nhân gây nên những cuộc tranh giành quyền lực, dẫn đến những cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới và cuối cùng là hai cuộc chiến tranh thế giới trong thế kỷ XX.

Vào đầu những năm 1970, do dầu đột ngột tăng giá, kinh tế thế giới, nhất là ở những nước công nghiệp tiên tiến, đã rơi vào một cuộc khủng hoảng năng lượng nghiêm trọng. Từ đó tới nay những biến động về giá dầu đã trở thành mối quan tâm hàng ngày, hàng giờ. Nhiều lúc người ta có cảm tưởng sự tồn vong và phát triển của thế giới hiện nay phụ thuộc phần lớn vào các nguồn tài nguyên, chủ yếu là dầu mỏ và khí đốt, nguồn năng lượng mà loài người hiện chỉ còn 30 đến 35% dự trữ, tức là với tốc độ sử dụng hiện nay dầu mỏ chỉ còn được sử dụng trong khoảng 30 đến 40 năm nữa.

Nền kinh tế toàn cầu đang ngày càng phụ thuộc vào năng lượng như hiện nay thì dầu mỏ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Giá dầu tác động và ảnh hưởng tới sự phát triển nền kinh tế toàn cầu và hầu như mọi ngành công nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào nguồn tài nguyên quý giá này.

Chỉ trong vài tháng qua, giá dầu đã tăng đột ngột, ảnh hưởng tới nền kinh tế toàn cầu. Tháng 7/2008, giá dầu lần đầu tiên đạt kỷ lục trong lịch sử với mức giá 150 đôla một thùng. Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA) vừa công bố báo cáo mới nhất về thị trường dầu mỏ thế giới. Nhu cầu tăng mạnh ở các nước đang phát triển và những căng thẳng về nguồn cung hiện nay dự báo "một bức tranh thị trường dầu mỏ u ám trong trung hạn".

Dầu mỏ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu, đặc biệt là trong bối cảnh chính trị thế giới nói chung và Trung Đông nói riêng có nhiều biến động khiến giá dầu không ngừng leo thang. Thực tế đang chứng minh rằng thế giới sẽ dần dần được vận hành bởi động lực là dầu mỏ cho đến khi nhân loại tìm ra được một loại nhiên liệu khác đủ sức thay thế hoàn toàn mà chuyện đó dường như còn xa vời.

Nằm trong sự ảnh hưởng chung, Việt Nam cũng không tránh khỏi những biến động và chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến động trong ngành dầu mỏ. Giá xăng và nhiên liệu tăng cao ảnh hưởng nghiêm trọng tới nền kinh tế quốc gia và đời sống của người dân.

Nỗi ám ảnh mang tên dầu mỏ

Vào những năm 1850, đồng lương của một giáo sư chẳng lấy gì làm sung túc. Vì vậy, để có thêm thu nhập, năm 1854, Benjamin Silliman Con, con trai một nhà hóa học vĩ đại người Mỹ, đồng thời cũng là giáo sư hóa học danh tiếng tại Đại học Yale, đã tham gia dự án nghiên cứu của một nhóm các nhà xúc tiến kinh doanh và doanh nhân với tổng mức thù lao là 526,08 đôla. Mặc dù đã hoàn thành công việc, ông vẫn không nhận được số tiền thù lao đã cam kết. Tức giận, Silliman muốn biết xem số tiền đó đã biến đi đâu. Sự giận dữ của ông nhằm vào những người đứng đầu nhóm này, George Bissell, một luật sư đến từ New York, và James Townsend, Chủ tịch một ngân hàng ở New Haven. Tuy nhiên, Townsend luôn né tránh vì e ngại những người gửi tiền tại ngân hàng của ông sẽ không yên tâm khi biết ông đang tham gia một hoạt động kinh doanh đầy tính đầu cơ như thế.

Bissell, Townsend và những thành viên khác trong nhóm kinh doanh này dồn hết tâm trí cho một điều vĩ đại, một tầm nhìn lớn về tương lai của thứ vật chất được biết đến với cái tên “dầu mỏ” nhằm phân biệt với các loại dầu thực vật và mỡ động vật. Họ biết rằng, dầu mỏ sủi bong bóng trên mặt các con suối hoặc thẩm thấu vào các giếng nước mặn ở khu vực xung quanh vùng Sông Dầu, một địa danh nằm giữa vùng đồi núi xa xôi ở phía tây bắc bang Pennsylvania. Tại nơi vùng đất hoang vu này, người ta tìm được một số thùng dầu bằng những phương tiện hết sức thô sơ. Họ chỉ việc hớt loại vật chất tối màu và nặng mùi này trên mặt các con suối và nhánh sông hoặc vắt những miếng giẻ hoặc chăn nhúng trong nước có chứa dầu. Người ta sử dụng phần lớn lượng dầu nhỏ bé thu lượm được này để sản xuất thuốc.

Nhóm các nhà đầu tư này cho rằng có thể khai thác dầu mỏ với khối lượng lớn hơn nhiều rồi chế biến thành một loại chất lỏng có thể dùng để thắp sáng. Họ chắc chắn loại dầu mới này sẽ có khả năng cạnh tranh mạnh với loại nến đang chiếm lĩnh thị trường vào những năm 1850. Tóm lại, họ tin tưởng rằng nếu khai thác được dầu với khối lượng đủ lớn, họ có thể tung ra thị trường một loại dầu thắp sáng chất lượng cao, giá thành thấp mà vào giữa thế kỷ XIX loài người đang rất cần. Họ bị thuyết phục bởi ý nghĩ rằng họ có thể chiếu sáng cho các thị trấn và nông trại tại Bắc Mỹ và châu Âu. Quan trọng hơn, họ có thể sử dụng dầu mỏ để bôi trơn các bộ phận chuyển động của máy móc trong buổi bình minh của kỷ nguyên cơ khí. Và cũng giống như tất cả những doanh nhân tin tưởng vào giấc mơ của riêng mình, họ còn tin tưởng rằng họ sẽ trở nên vô cùng giàu có nếu làm được tất cả những việc này. Không ít người nhạo báng họ. Tuy nhiên, nhờ kiên trì, những người này đã thành công trong việc đặt nền móng cho một kỷ nguyên hoàn toàn mới trong lịch sử nhân loại - kỷ nguyên dầu lửa.

Dự án mang tên "Để xoa dịu những phiền muộn của chúng ta”

Dự án này bắt nguồn từ những ý định tình cờ và lòng quyết tâm của George Bissell, người đi đầu trong việc sáng lập ngành công nghiệp dầu lửa. Với khuôn mặt dài, nhọn và vầng trán rộng, Bissell toát ra vẻ đẹp trí tuệ đầy ấn tượng. Ông là một người sắc sảo và nhạy bén với các cơ hội kinh doanh vì đã có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực này.

Tự lập từ năm 12 tuổi, Bissell tự trang trải cho việc học tập tại trường Cao đẳng Dartmouth bằng cách đi dạy và viết báo. Sau khi tốt nghiệp, ông từng làm giảng viên tiếng Latinh và Hy Lạp, rồi chuyển tới Washington để làm báo. Cuối cùng, Bissell định cư ở New Orleans, nơi ông trở thành hiệu trưởng của một trường trung học rồi làm giám thị của các trường công. Trong thời gian rảnh, ông học thêm để lấy bằng luật sư và tự học thêm nhiều ngôn ngữ nữa và, cuối cùng, ông thành thạo cả tiếng Pháp, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha và có thể đọc, viết bằng tiếng Do Thái cổ, tiếng Phạn, tiếng Hy Lạp cổ và hiện đại, tiếng Latinh và tiếng Đức.

Nhưng do sức khỏe kém Bissell buộc phải trở lại Washington. Trên đường trở về, khi đi qua Pennsylvania ông nhìn thấy một số hoạt động khai thác dầu thô sơ với các vợt hớt và giẻ thấm dầu. Không lâu sau, khi tới thăm mẹ ở Hanover, bang New Hampshire, Bissell tới trường cũ của ông, trường Dartmouth. Tại đây, ông quan sát thấy một chai chứa mẫu dầu mỏ giống như ở Pennsylvania cho một học sinh cũ của trường đang làm bác sĩ tại phía tây Pennsylvania mang đến.

Bissell biết rằng loại dầu này đang được sử dụng như những loại thuốc dân gian và cả biệt dược để chữa nhiều loại bệnh từ đau đầu, đau răng, điếc… tới rối loạn tiêu hóa, nhiễm giun sán, thấp khớp và phù, cũng như làm liền các vết thương trên lưng ngựa và la. Loại dầu này được gọi là “dầu Seneca” theo tên người da đỏ địa phương đặt để bày tỏ lòng kính trọng với thủ lĩnh Red Jacket, nhân vật được cho là đã truyền lại những bí quyết chữa lành vết thương của loại dầu này cho người da trắng. Một công ty cung cấp dầu Seneca đã quảng cáo “sức mạnh chữa bệnh kỳ diệu” của loại dầu này bằng một bài thơ như sau:

"Thứ dầu tuyệt hảo đến từ dòng suối bí mật của thiên nhiên,

Đem đến cho con người sự khởi sắc trong sức khỏe và cuộc sống;

Từ những đáy sâu và dòng chảy kỳ diệu của tự nhiên,

Để làm dịu những đớn đau và phiền muộn của chúng ta".

Bissell biết chất lỏng sền sệt màu đen này có thể đốt cháy được. Nhìn thấy mẫu dầu mỏ ở Dartmouth, ông lóe lên một ý tưởng loại dầu này không chỉ có thể dùng làm thuốc chữa bệnh mà còn có thể dùng làm dầu thắp sáng. Ông có thể thoát khỏi nỗi lo lắng về tiền bạc và trở nên giàu có nhờ việc phát triển thứ nhiên liệu này. Trực giác đó trở thành kim chỉ nam và niềm tin của ông, những điều được thử thách rất nhiều trong cuộc sống đầy thất vọng của ông sáu năm sau đó.

Nhưng liệu có thể dùng dầu mỏ làm nhiên liệu đốt? Bissell đã khuấy động mối quan tâm của các nhà đầu tư khác và cuối năm 1854, nhóm doanh nhân đã thuê giáo sư Silliman của Đại học Yale phân tích và đánh giá khả năng đốt cháy và bôi trơn của dầu. Nhưng điều chủ yếu họ muốn là có được sự tán đồng của vị giáo sư danh tiếng này dành cho dự án để bán được cổ phiếu và huy động vốn. Không ai có thể đáp ứng tốt mục đích này bằng Silliman. Với vóc người to lớn, tráng kiện và “khuôn mặt tử tế, vui vẻ”, Silliman là một trong những tên tuổi vĩ đại và đáng kính nhất trong nền khoa học thế kỷ XIX. Ông là con trai của người sáng lập ngành hóa học Mỹ và bản thân ông cũng là một trong những nhà khoa học tiêu biểu nhất thời đó. Silliman cũng là tác giả của những cuốn sách giáo khoa vật lý và hóa học hàng đầu. Yale là thủ đô khoa học của nước Mỹ giữa thế kỷ XIX và cha con nhà Silliman chính là tâm điểm của trung tâm này.

Tuy nhiên, Silliman quan tâm đến thực tiễn nhiều hơn là lý thuyết và thực tiễn đã hút ông vào lĩnh vực kinh doanh. Hơn nữa, mặc dù có danh tiếng lớn và trình độ khoa học cao, ông luôn cần có thêm thu nhập. Lương làm khoa học rất thấp mà gia đình của ông lại đang phình ra. Do đó, ông thường nhận làm thêm các công việc tư vấn ở bên ngoài, cung cấp các đánh giá địa chất và hóa học cho nhiều đối tượng khách hàng. Mối quan tâm đến thực tiễn cũng thu hút ông tham gia trực tiếp vào những dự án kinh doanh mạo hiểm mà theo lời giải thích của ông, thành công của chúng sẽ đem đến cho ông “thật nhiều cơ hội… cho khoa học”. Một người em rể của ông thì tỏ ra hoài nghi hơn khi nhận xét, Benjamin Silliman “đang trên đà tụt dốc liên tục, về mặt này hay mặt khác. Thật đáng thương thay cho khoa học”.

Khi nhận việc phân tích dầu mỏ, Silliman luôn tạo cho khách hàng niềm tin mình đang có được bản báo cáo mong đợi. Silliman tuyên bố: “Tôi dám cam đoan với các ngài rằng kết quả này sẽ đáp ứng được những mong đợi của các ngài về giá trị của thứ vật chất này”. Ba tháng sau đó, khi gần kết thúc nghiên cứu, thậm chí ông còn có thái độ nhiệt tình hơn. Ông công bố đã có “thành công ngoài dự kiến trong việc sử dụng sản phẩm chưng cất của dầu mỏ làm chất đốt”.

Các nhà đầu tư trông đợi rất nhiều vào bản báo cáo cuối cùng. Nhưng sau đó xảy ra một sự cố. Họ nợ Silliman số tiền 526,08 đôla (tương đương khoảng 5.000 đôla ngày nay) nên ông đã nhất quyết đòi họ phải chuyển trước 100 đôla tiền mặt vào tài khoản của ông ở New York. Sự chậm trễ trong việc đặt cọc đã khiến vị giáo sư nổi giận. Xét cho cùng, ông không thực hiện dự án này chỉ vì lòng ham thích khám phá khoa học đơn thuần. Vì thế, ông tuyên bố sẽ giữ lại những kết quả nghiên cứu cho tới khi nào được thanh toán hết tiền. Trên thực tế, Silliman đã bí mật đưa bản báo cáo cho một người bạn cất giữ, còn ông đi xuống miền Nam, nơi người ta rất khó gặp được ông.

Các nhà đầu tư cảm thấy thất vọng. Báo cáo cuối cùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc thu hút thêm vốn. Cuối cùng, một trong những đối tác của Bissell đã chịu bỏ ra số tiền này với sự bảo đảm của chính Bissell. Bản báo cáo đề ngày 14/4/855 đã được giao cho các nhà đầu tư và nhanh chóng được chuyển tới nhà in. Mặc dù vẫn phát khiếp vì khoản thù lao phải trả cho Silliman, nhưng trên thực tế, các nhà đầu tư này vẫn thu được nhiều hơn số tiền họ bỏ ra.

Theo nhận định của một nhà sử học, nghiên cứu của Silliman chính là “một bước ngoặt trong sự hình thành ngành dầu lửa”. Silliman đã xua tan những nghi ngờ về khả năng sử dụng dầu mỏ theo những phương thức mới. Ông chỉ ra cho các khách hàng của mình là có thể đun sôi dầu mỏ ở các nhiệt độ khác nhau và nhờ vậy có thể chưng cất dầu thành nhiều sản phẩm có thành phần chính là carbon và hydro. Một sản phẩm quan trọng trong số đó là loại dầu thắp sáng chất lượng rất cao.

Silliman viết: “Thưa các ngài, tôi hoàn toàn có cơ sở để tin công ty của các ngài sở hữu một loại vật liệu thô mà từ đó, có thể chế tạo ra những sản phẩm rất có giá trị bằng các quy trình giản đơn và không hề tốn kém. Thưa các ngài, sau những nỗ lực nghiên cứu không mệt mỏi, tôi có thể bảo đảm rằng công ty của các ngài đang sở hữu một loại tài nguyên quý giá. Với các quy trình công nghệ đơn giản và kinh tế, nó có thể tạo ra các sản phẩm có giá trị cao”. Do những vướng mắc về tài chính đã được giải quyết, Silliman lại sẵn sàng tham gia các dự án tiếp theo.

Có bản báo cáo của Silliman trong tay, bản báo cáo giống như một lời quảng cáo có sức thuyết phục nhất dành cho vụ kinh doanh này, nhóm các nhà đầu tư trên không gặp trở ngại nào trong việc huy động các nguồn vốn cần thiết từ các nhà đầu tư khác. Bản thân Silliman cũng mua 200 cổ phiếu, khiến doanh nghiệp đã được biết tới với cái tên Công ty dầu mỏ Pennsylvania này càng kính nể ông hơn. Tuy nhiên, thời kỳ khó khăn còn kéo dài thêm một năm rưỡi nữa trước khi các nhà đầu tư sẵn sàng tham gia vào bước tiến mạo hiểm tiếp theo.

Nhờ nghiên cứu của Silliman, giờ đây, họ biết rằng có thể chiết xuất một chất lỏng dùng để đốt cháy từ dầu mỏ. Nhưng lượng dầu mỏ có sẵn liệu có đủ không? Một vài người cho rằng, dầu chỉ là những “giọt nhỏ” chảy ra từ các vỉa than ngầm. Một điều chắc chắn là không thể xây dựng hoạt động kinh doanh bằng cách vớt váng dầu trên mặt sông hoặc vắt dầu từ những mảnh giẻ rách thấm nước chứa dầu. Trước khi quyết định đầu tư lớn, vấn đề sống còn mà cả công ty này cùng hướng vào là phải chứng tỏ dầu mỏ tồn tại với khối lượng đủ để khai thác được.

Vào những năm 1850, việc phát triển dầu lửa tại Mỹ vấp phải hai rào cản lớn. Đó là chưa có một nguồn cung dầu đáng kể nào và chưa có loại đèn giá rẻ phù hợp để đốt loại dầu đó. Những loại đèn thời đó khi đốt tạo ra rất nhiều khói, và gây cay mũi. Sau đó, một đại lý bán dầu tại New York đã phát hiện ra một loại đèn có ống khói bằng thủy tinh để đốt dầu lửa đang được sản xuất tại Viên. Dựa trên thiết kế của người dược sĩ và người thợ đường ống ở Lvov, chiếc đèn đã khắc phục được các vấn đề khói và mùi. Đại lý dầu New York nhập khẩu loại đèn này và nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Do liên tục được cải tiến, loại đèn xuất xứ từ Viên này đã trở thành cơ sở cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đèn dầu tại nước Mỹ và sau đó được xuất khẩu trên khắp thế giới.

Như vậy, đến thời điểm Bissell khởi đầu dự án, dầu lửa loại dầu thắp sáng tốt và rẻ hơn đã được nhiều gia đình sử dụng. Những kỹ thuật cần thiết để lọc dầu thô thành dầu lửa đã được thương mại hóa với các loại parafin. Và một loại đèn giá rẻ cũng đã được phát triển để đốt dầu và đã đem lại những hiệu quả nhất định. Thật ra, những gì Bissell và các nhà đầu tư tại Công ty dầu mỏ Pennsylvania đang nỗ lực tìm kiếm là khám phá một nguồn nhiên liệu thô mới. Tựu chung, giá cả chính là vấn đề. Nếu họ có thể tìm thấy dầu mỏ đủ để đáp ứng nhu cầu, dầu sẽ được bán với giá rẻ và giành được thị phần của những sản phẩm dầu thắp sáng giá đắt hơn nhiều, hoặc không làm khách hàng hài lòng.

Việc đào lấy dầu không giải quyết được vấn đề. Nhưng có lẽ còn một giải pháp thay thế khác. Việc khoan tìm muối đã phát triển trước đó hơn 15 năm ở Trung Quốc, với các giếng muối khoan sâu tới 360 mét, chính là một gợi ý. Vào khoảng năm 1830, phương pháp cổ truyền của người Trung Quốc du nhập sang châu Âu và được người châu Âu học tập và rồi sau đó những kinh nghiệm này đã thúc đẩy việc khoan giếng muối ở Mỹ.

Khi đang trăn trở với dự án của mình, vào một ngày nóng bức năm 1856 ở New York, George Bissell tránh nắng dưới mái hiên của một tiệm thuốc trên đại lộ Broadway và bất chợt nhìn thấy tờ quảng cáo một loại thuốc sản xuất từ dầu mỏ, trên đó có hình ảnh nhiều giàn khoan các mỏ muối. Loại dầu mỏ dùng để chế tạo loại biệt dược đó là phụ phẩm thu được trong quá trình khoan khai thác muối. Với sự tình cờ này, tiếp theo những hoạt động ông đã thấy ở tây Pennsylvania và trường Dartmouth trước đây, Bissell nảy ra ý tưởng áp dụng công nghệ khoan khai thác muối để khoan dầu.

Bissell, rồi đến các nhà đầu tư khác trong Công ty dầu mỏ Pennsylvania, đều nhận thức sâu sắc là phải áp dụng kỹ thuật khoan muối vào việc khai thác dầu. Họ sẽ khoan thay vì đào để lấy dầu mỏ. Nhiều nhà đầu tư khác ở Mỹ và Ontario, Canada cũng đang thử nghiệm kỹ thuật trên. Tuy nhiên, Bissell và cộng sự đã sẵn sàng hiện thực hóa ý tưởng này. Họ đã có báo cáo của Silliman và nhờ nó đã huy động được vốn. Tuy nhiên, ý tưởng của họ không được đánh giá nghiêm túc. Khi ông chủ nhà băng James Townsend bàn về ý tưởng khoan dầu, nhiều người ở New Haven đã nhạo báng: “Ồ, Townsend! Dầu đi ra từ lòng đất, bơm dầu lên mặt đất như ông bơm nước ư? Thật vớ vẩn! Ông điên mất rồi!” Mặc dù vậy, các nhà đầu tư vẫn quyết tâm tiến hành. Họ tin vào cơ hội và nhu cầu ngày càng tăng. Nhưng liệu họ có thể giao phó dự án điên rồ này cho ai?

....
Update 01 Aug 2009: download free here (english and 1991 edition)