Sunday, June 22, 2008

LÀM GIÀU TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC



LÀM GIÀU TRONG NỀN KINH TẾ TRI THỨC

BUILDING WEALTH - THE NEW RULES

for Individuals, Companies, and Nations in a Knowledge-Based Economy

Cái nhìn của tác giả về những vấn đề làm giàu trong nền kinh tế tri thức phần nhiều mang tính chủ quan nên những phân tích có phần thiên lệch nhiều. Đây là 13 quy luật làm giàu mà tác giả giới thiệu:

Quy luật số 1: Chưa bao giờ có ai trở nên thật giàu có bằng cách tiết kiệm tiền. NGười giàu nhìn thấy cơ hội hành động và đùâ tư vào những tình huống có sự mất cân đối lớn. Tiết kiệm một cách thận trọng và đầu tư vào những tình huống cân đối thông thường đem lại cho người ta thoải mái trong tuổi già nhưng không bao giờ thật sự giàu có cả.

Quy luật số 2: Các doanh nghiệp thành công phải sẵn sàng tự hủy để tự cứu. Chúng phải sẵn snag phá hủy cái cũ trong khi đang thành công nếu muốn xây dựng cái mới trước khi thành công. Nếu chúng không biết tự hủy, người khác cũng sẽ tiêu diệt chúng.

Quy luật số 3: Doanh nghiệp muốn phát triển nhanh với lợi nhuận cao phải boết lợi dụng sự mất cân đối về công nghệ, khai thác mất cân đối và phát triển hay tạo mất cân đối về xã hội. Tất cả các hoạt động khác đều đem lại tăng trưởng chậm và tỷ lệ lợi nhuận thấp.

Quy luật số 4: Hiểu, nhận biết và chấp nhận những hạn chế của những thế yếu cố hưu là khởi điểm của sự khôn ngoan đối với tất cả mọi tổ chức. Bí mật thành công là tìm chỗ sử dụng tài nguyên của mình nơi mà các thế yếu đó không có tác dụng.

Quy luật số 5: Con người đã khám phá ra cách hoạt động thành công trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang trong thời kỳ lạm phát nhẹ nhưng lại không biết hoạt động thế nào ngay trong tình trạng có giảm phát nhẹ. Nếu được chọn lựa giữa tỷ lệ lạm phát và giảm phát, bất cứ lúc nào cũng nên chọn lạm phát.

Quy luật số 6: Không có một định chế nào thay thế được cho vai trò tác nhân biến đổi của doanh nhân. Doanh nhân chiến thắng trong cuộc chơi, trở nên giàu có và có quyền lực; nếu không có doanh nhân, kinh tế sẽ trở nên nghèo nàn và yếu kém. Cái cũ không ra đi thì cái mới không thể vào được.

Quy luật số 7: Bất cứ xã hội nào đặt ưu tiên trật tự lên trên hết không phải là một xã hội sáng tạo, nhưng nếu không đạt được một mức độ trật tự phù hợp thì sự sáng tạo sẽ biến mất như chui vào lỗ đen.

Quy luật số 8: Hoàn vốn kinh tế từ việc gia tăng thêm đầu tư xã hội trong nghiên cứu cơ bản cũng rõ ràng như bất cứ điều gì trong kinh tế học.

Quy luật số 9: Chủ nghĩa tư bản dựa trên tri thức sẽ không thể hoạt động nếu thiếu một hệ thống xác định ai là chủ sở hữu hoặc ai kiểm soát quyền sở hữu trí tuệ. Chủ nghĩa tư bản đòi hỏi quyền sở hữu phải rõ ràng và dễ áp dụng.

Quy luật số 10: Ẩn số lớn nhất đối với cá nhân trong nền kinh tế tri thức là làm thế nào có một nghề chuyên môn trong một hệ thống không có những nghề chuyên môn.

Quy luật số 11: Chỉ những ai quan tâm đến tương lai mới tạo ra công cụ. Cho dù có nói gì chăng nữa thì những ai tạo ra ít công cụ là những người không quan tâm đến tương lai.

Quy luật số 12: Phát triển kinh tế và phát triển môi trường là những từ đồng nghĩa – không phải phản nghĩa.

Quy luật số 13: May mắn là cần thiết. Tài năng, sự năng động, tính bền bỉ chưa đủ để trở nên giàu có.

Trong một đống quy luật này chỉ thấy có 3 cái là thấy phân tích khá hay: số 1, số 7 và số 13. Cuốn này đọc thấy đựơc nhất ở đoạn phân tích hỗn độn đối kháng trật tự nhưng không thể chỉ chọn lựa một trong hai mà đòi hỏi có sự cân bằng.

“Không ai quan sát cận cảnh hệ thống của hoa Kỳ lại có thể không thấy sự hỗn loạn nội tại, hay sự thiếu kiểm soát từ trung ương nằm sẵn trong hệ thống. Không có chương trình giảng dạy cấp quốc gia hay hệ thống thi tốt nghiệp quốc gia từ bậc trung học buộc các thầy cô phải dạy cái gì hay học sinh phải học cái gì. Bình quân mà nói, các trường trung học ở hoa Kỳ không đào tạo một họ sinh có thể so sánh về mặt chất lượng với học sinh ở phần còn lại của thế giới, nhưng chúng cũng không o ép một thiểu số có suy nghĩ ngược lại. Làm điều đó sẽ quá hỗn loạn và không hiệu quả. Điều tạo tính chất độc nhất vô nhị của hệ thống đại học Mỹ chính là ở tính đa dạng về chất lượng. Tính đa dạng hầu như vô giới hạn. Cái gì cũng có thể dạy được.

Ngược lại, một mức độ trật tự cao tại Nhật bản đã dẫn đến thiếu vắng sự sáng tạo kinh tế. Tại các trường trung học, học sinh đã phải nhồi nhét một khối lượng khổng lồ các tư liệu để có thể vượt qua các kỳ thi do Bộ giao dục trung ương soạn. Nhưng ai qua được kỳ thi tốt nghiệp phổ thông sẽ vào các trường sau trung học để tiếp tục nhồi nhét nhiều hơn nhưng thứ mà những người vừa học có thể nhồi nhét. Không có thời gian cho tư duy sáng tạo hay cho trí tưởng tượng bay bổng. Một tiến trình phê chuẩn dài dằng dặc phải trải qua trước khi được đưa vào chương trình các lãnh vực mới về nghiên cứu tri thức. Mọi thứ được tổ chức một cách hiệu quả tại Nhật. Không có kẻ nứt trong hệ thống nơi cỏ dại có thể mọc nhưng điều này cũng có nghĩa là không có thể nứt trong hệ thống để hoa có thể nảy sinh.

Mỹ có thừa sự hỗn loạn để sáng tạo nhưng có quá ít trật tự để sử dụng các sáng kiến của nó một cách có hiệu quả. Nhật Bản có thừa trật tự để có hiệu quả nhưng có quá ít hỗn loạn để có sáng tạo.Cả hai đều có lợi để họ chuyển dịch một ít về hướng của người kia. Vấn đề không phải là lựa chọn giữa hỗn loạn và trật tự. Cả hai đều cần thiết. Vấn đề là giữ chúng trong một thế cân bằng phù hợp.”

(trích lược)


Tóm lại cuốn này chỉ đọc được chừng đó.

No comments: