Monday, October 27, 2008

Lịch sử bí mật đế quốc Hoa Kỳ ( The Secrect History of American Empire ) - John Perkins


Nhà xuất bản: Chính trị quốc gia - Sự thật
Ngôn ngữ: Tiếng Việt
Số trang: 584
Gia : 104.000VND
Ngay xuat ban: 26/11/2008

Tóm tắt

Những nhân vật và sự kiện được đề cập trong cuốn sách này hoàn toàn có thật. Tôi đã làm hết sức mình để giới thiệu thật chân thực về họ dựa trên những hồ sơ cá nhân, bản ghi chép, cũng có thư từ, e-mail, những hồi tưởng cũng như những văn bản được phép xuất bản. Trong một số trường hợp, tôi cũng có thay đổi tên nhân vật và các tình tiết, vì đó là một điều kiện mà rất nhiều người đặt ra khi tôi tiến hành phỏng vấn họ, hoặc cũng có khi tôi kết hợp các đoạn đối thoại cho phù hợp với mạch bài viết nhưng chỉ ở những đoạn không ảnh hưởng tới tính chân thực của cuốn sách. Mỗi khi đề cập tới những sự kiện lịch sử, tôi luôn tuân thủ giao ước của mình là cung cấp những thông tin cũng như ghi chép thật chính xác, đôi khi tôi còn minh họa thêm cho bài phát biểu của các nhân vật bằng những tài liệu tham khảo có liên quan ở phần ghi chú phía cuối. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là tôi thay đổi hay xác nhận những chi tiết ẩn đằng sau những câu chuyện riêng tư đó; khi mỗi người kể về vai trò của họ trong những vụ không tặc máy bay dân dụng, xâm chiếm một đất nước để ám sát người đứng đầu đất nước, mua chuộc những nhà lãnh đạo cấp cao, đầu cơ trục lợi từ những thảm họa thiên nhiên, dụ dỗ và tống tiền những quan chức được bầu dân chủ, và kiểm soát những hành động bí mật khác, tôi cảm thấy mình phải có nghĩa vụ làm sáng tỏ những lời kể của họ. Tôi muốn nhấn mạnh rằng, bất cứ một sự kiện nào mà tôi đề cập đến đều từng được các tác giả khác, các sử gia và nhà báo hay những tài liệu lưu trữ của các tổ chức như Ngân hàng Thế giới đưa ra làm tài liệu dẫn chứng; vì vậy, câu chuyện có thể là của tôi nhưng các tình tiết trong đó đều là sự thật.

Mục lục

Phần một 33
Châu Á 33

Phần hai 149
MỸ LATINH 149

PHẦN III 283
KHU VỰC TRUNG ĐÔNG 283

PHẦN IV 393
CHÂU PHI 393

PHẦN V 479
THAY ĐỔI THẾ GIỚI 479

TuanVietNam

"Chính trị vỉa hè"

"Có tin đồn rằng George W. Bush đã bị quay lén khi đang sử dụng cocain và có hành vi quan hệ tình dục bất chính trong thời gian cha anh ta làm tổng thống."

Thế rồi, nhà lãnh đạo Panama lúc đó là Noriega đã "sử dụng những bức ảnh đồi truỵ của Bush con và người tình để thuyết phục Bush cha (khi đó đang là tổng thống) đứng về phía chính quyền Panama trong những vấn đề chủ chốt. Để trả đũa, Mỹ mang quân xâm lược Panama và đẩy Noriega vào nhà tù Miami."

Sự kiện Mỹ tấn công Panama năm 1989 được giải thích như vậy trong Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ. Không ai ngạc nhiên khi sách của John Perkins bán chạy. Ông biết cách viết, biết cách thắt nút và mở nút, biết đưa vào trong câu chuyện những tình tiết "vỉa hè" để một cuốn sách chính trị trở nên sống động, hấp dẫn.

Nếu như Lời thú tội của một sát thủ kinh tế (từ đây viết tắt là Lời thú tội) được viết như một tự truyện theo mạch thời gian tuyến tính, Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ (từ đây viết tắt là Bí sử) là một kiểu tự truyện được viết theo mạch không gian phi tuyến tính.

Cuốn sách đầu tiên của Perkins kể lại tuần tự cuộc đời sát thủ kinh tế của ông, từ khi "bán linh hồn cho quỷ" để gia nhập đội ngũ sát thủ kinh tế đến khi ngộ ra "tội lỗi". Cuốn sách thứ hai này chỉ như những ghi chép có ý thức của Perkins khi đi qua rất nhiều quốc gia và lục địa khác nhau. Từ Châu Á, Châu Mỹ Latinh rồi tới Châu Phi, đi đến đâu, Perkins cũng viết ra những trải nghiệm của mình và những người khác. trong quá trình nhận ra bản chất thật sự của "đế chế Hoa Kỳ".

Có khác nhau về cách kể chuyện, nhưng ý tưởng và thông điệp thì vẫn thế. Có thể coi Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ là phần tiếp theo của "bản tuyên ngôn" chống đế chế Mỹ nói riêng và toàn cầu hóa nói chung.

Những con bò cái bị vắt sữa

"Con bò cái mà chúng ta có thể vắt sữa cho tới khi về hưu"

Trong Lời thú tội, phó chủ tịch MAIN, một công ty tư vấn của Mỹ, đã nói như vậy khi nhắc tới Ảrập Xêút. Mà không chỉ đất nước này, toàn bộ các quốc gia đang phát trển theo Perkins đều là những con bò cái để nước Mỹ và tập đoàn đa quốc gia của họ "vắt sữa".

Hai cuốn sách của Perkins đều tập trung mô tả những âm mưu, quá trình và thủ đoạn "vắt sữa" của đế chế Mỹ. Âm mưu được thực hiện theo một tiến trình tuần tự với nhiều thủ đoạn. Núp dưới danh nghĩa xóa đói giảm nghèo, tập đoàn trị Mỹ (một liên minh giữa chính phủ, các ngân hàng và tập đoàn lớn) tìm mọi cách "viện trợ", "cho vay" để giúp các nước nghèo phát triển.

Qua những công ty tư vấn như MAIN (công ty mà Perkins từng làm việc), các sát thủ kinh tế vẽ ra những kế hoạch phát triển cơ sở hạ tầng… cho các nước nghèo và hào phóng cho họ vay tiền để thực hiện những kế hoạch đó.

Thực chất, các kế hoạch đã được sát thủ kinh tế "thổi phồng" và "phóng đại" hơn nhiều so với thực chất. Mục tiêu là để các nước khác phải vay thật nhiều và ngập trong nợ nần. Cho tới khi đó, nước Mỹ sẽ nắm quyền kiểm soát, ép các quốc gia đó phải trả nợ bằng nguồn tài nguyên khoáng sản và dầu mỏ của họ.

Tài nguyên bị vắt kiệt để trả nợ chứ không phải đầu tư cho an sinh xã hội, giáo dục, y tế đã đẩy dân nghèo ở các nước đang phát triển vào tình trạng bần cũng hóa. Đó là cái nôi nuôi dưỡng những kẻ khủng bố nước Mỹ mà sự kiện 11/9 là một ví dụ. Môi trường bị huỷ hoại nghiêm trọng bởi các tập đoàn tranh nhau khai thác vô tội vạ tài nguyên, khiến trái đất đứng trước những hiểm hoạ khôn lường.

Cuộc thập tự chinh mới của một đế quốc mới

Theo Perkins thì những định chế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) chỉ là những con bài để nước Mỹ sử dụng nhằm ép các nước nghèo đi theo quỹ đạo của họ. Đó là một cuộc Thập tự chinh mới, không phải bằng quân sự mà bằng kinh tế, không phải bằng những chiến binh giáo mác trên tay mà bằng những sát thủ kinh tế với các bản báo cáo giả tạo được vẽ vời cho ra vẻ khoa học. Mục tiêu là mở rộng đế chế Mỹ trên phạm vi toàn cầu để phục vụ cho lợi ích của một thiểu số những quan chức cấp cao và chủ những tập đoàn lớn.

Nhưng theo Perkins, thủ đoạn của đế chế Mỹ còn kinh khủng hơn thế. Khi những quốc gia đang phát triển bất tuân theo sự điều khiển của Mỹ, "lũ chó săn bắt đầu sử dụng đến những chiếc gậy bóng chầy và cuối cùng là súng." Những nhà lãnh đạo theo chủ nghĩa dân tộc chống lại sự bóc lột của tập đoàn Mỹ sẽ bị mua chuộc bởi các sát thủ kinh tế.

Nếu các sát thủ kinh tế thất bại, những sát thủ thật sự của CIA sẽ vào cuộc. Cái chết của tổng thống Ecuador Jaime Roldos, tổng thống Panama Omar Torrijos và hàng loạt cái tên khác Arbenz, Mossadegh, Allende… đều có bàn tay vấy máu của CIA.

Gần đây nhất là cuộc chiến tranh Iraq để lật đổ nhà độc tài chống Mỹ Saddam Hussein dưới chiêu bài chống khủng bố. Theo Perkins, thực chất của tất cả những mỹ từ như dân chủ, nhân quyền, chống khủng bố chỉ là lớp áo che đậy cho âm mưu thật sự của Mỹ nhằm tước đoạt nguồn dầu mỏ, khoáng sản và khuynh loát thị trường của những quốc gia nghèo.

Trong Bí sử, Perkins đã định nghĩa đế quốc là một dân tộc thống trị dân tộc khác với 7 đặc điểm cơ bản và theo đó thì nước Mỹ hiện nay có cả bảy đặc điểm của một đế quốc. Tưởng như thời đại của chủ nghĩa đế quốc đã qua rồi nhưng thực chất, một hệ thống đế quốc mới đang được dựng nên, tinh vi và hiệu quả nhất mà thế giới từng thấy.

Tấn công vào "trái tim nhỏ máu của vua chúa"

Hai cuốn sách của Perkins như những bản cáo trạng đanh thép chống lại đế chế Mỹ mà đứng đằng sau nó là những tập đoàn lớn. Đọc Perkins để thấu hiểu những lý lẽ của phe chống toàn cầu hóa, thấu hiểu tại sao nhiều người dân ở Châu Mỹ Latinh và các quốc gia Trung Đông lại căm ghét nước Mỹ đến như vậy.

Perkins khiến người đọc phải nhìn lại tất cả những quan niệm cũ về ODA, FDI, WB, IMF… Tất cả những khoản vay "ưu đãi" được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng lại trở về túi chính những công ty trúng thầu là các tập đoàn của các nước cho vay. Cuối cùng, chỉ có các nước nghèo lâm vào cảnh nợ nần bởi những khoản vay khổng lồ dùng để tài trợ cho những dự án "bánh vẽ".

Tuy nhiên, nhìn đi cũng phải nhìn lại. Perkins có lẽ đã đi quá đà khi sử dụng thứ ngôn ngữ nặng nề nhất để chỉ trích không tiếc lời đế chế Mỹ, các tập đoàn Mỹ và tiến trình toàn cầu hóa. Không thấy có đoạn nào ông nhắc tới những giá trị mà nó đã tạo ra. Không thấy Perkins nói về những lợi ích to lớn của toàn cầu hóa, những đóng góp vĩ đại của các tập đoàn trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm, cải tiến mẫu mã, giảm giá thành…

Tất cả tội lỗi từ sự huỷ hoại của môi trường tới sự nghèo khổ của người dân các nước đang phát triển đều bị đổ vấy lên đầu các tập đoàn lớn, các nước giàu. Đọc Perkins dễ làm nhiều người bị kích động đi theo một quan điểm nguy hiểm: nghèo đói là vinh quang, giàu sang là tội lỗi, người nghèo vẫn cứ nghèo bởi bọn nhà giàu ăn cướp của họ. Lịch sử những cuộc cải cách ruộng đất, cách mạng văn hóa, quốc hữu hóa công nghiệp ở nhiều quốc gia đã chứng minh rằng quan điểm đó chỉ dẫn tới thảm họa.

May thay, phần kết của Lịch sử bí mật đế chế Hoa Kỳ đã mở ra một bầu trời tươi sáng hơn. Perkins đề xuất ra những biện pháp đấu tranh để "thay đổi chính bản thân các tập đoàn", khiến những tập đoàn lớn phải thực hiện những chính sách vì con người, vì môi trường và vì cộng đồng nhiều hơn.

Mỗi người phải có ý thức trong hành xử và tiêu dùng, phải ảnh hưởng tới những người khác, thuyết phục tập đoàn trị thay đổi chính sách của họ để biến "chủ nghĩa tư bản đế quốc thành chủ nghĩa tư bản dân chủ."

"Ngay cả vua chúa cũng là con người. Trái tim họ cũng có thể tan vỡ, chúng nhỏ máu. Họ có thể bị thuyết phục…" Thông điệp trong những trang cuối của cuốn sách đã mở ra những giải pháp tích cực để "chúng ta cùng chung tay đổi thay thế giới" như lời kêu gọi của Perkins.

* Khánh Duy

Một vài ý kiến của những người bình luận (phần lớn là chưa đọc sách)
Họ và tên: Hoàng Mai Dân
Địa chỉ: Hà Nội
Email: hoangmaidan@gmail.com

Tôi đã đọc cuốn "Lời thú tội của một sát thủ kinh tế", tôi đang đọc gần xong cuốn "Đô la hay lá nho" của Charles Wheelan. Hai tác giả này có cách nhìn khác nhau về thương mại và toàn cầu hoá nhưng cả 2 cuốn sách đều hay, với những ví dụ rất thực tế của toàn cầu hoá.

Có lẽ vì J. Perkins đã từng là một "sát thủ kinh tế" nên các ví dụ và cách phân tích của ông xoáy sâu vào bản chất vấn đề của các nhà đế quốc đã tính toán trước. Còn C. Wheelan đứng từ góc độ của một nhà phân tích kinh tế nên ông thấy được nhiều về lợi ích và tác hại kèm theo của việc toàn cầu hoá và giá trị lao động cũng như tiềm năng của mỗi quốc gia.

Cái gì cũng có điểm tốt, điểm xấu nhưng quan trọng là phải có cái nhìn khách quan và tận dụng những yếu tố có lợi cho mình và tiến lên.


Họ và tên: Nguyễn Trung Hiếu
Địa chỉ:
Email: olu2711@yahoo.com

Theo tôi nghĩ, chúng ta phải nên có tìm hiểu thấu đáo vấn đề rồi hãy rút ra kết luận. Tại sao chúng ta lại chỉ đọc vài dòng giới thiệu để rồi phê phán cuốn sách này cuốn sách kia. Nếu có phê phán thì hãy đọc xong cuốn sách chứ??
Tôi xin đặt câu hỏi cho tất cả các bạn phê phán cho cuốn sách này : Mĩ sẽ làm gì khi những đồng USD của họ phải trả cho việc mua dầu từ Trung Đông?
Chắn hẳn, các bạn sẽ nhận thấy 1 điều, nếu chỉ giao thương 1 chiều, thì giờ đây Trung Đông đã nắm trong tay hàng tấn tiền USD. Vậy còn cách nào hay hơn cách để các tập đoàn hùng mạnh của Mĩ sang xây dựng cho Trung Đông những thành phố đồ sộ, những tòa cao ốc chọc trời.
Nhiều bạn sẽ đặt câu hỏi: tiền của tôi thì tôi mua sắm, chứ liên quan gì đến anh? Chuyện về thế giới kinh tế không đơn thuần là vậy. Có câu nói: giờ đây Doanh nghiệp mới là thượng đế khi người tiêu dùng buộc phải tiêu dùng mặt hàng mà họ sản xuất (xin chú thích thêm: câu nói khách hàng là thượng đế là câu nói lí thuyết đã nằm im lìm trong các sách giáo khoa kinh tế)
Tôi sẽ đặt ra cho các bạn 1 câu hỏi nữa: Thử hỏi, có ai trên đời này cho KHÔNG 1 thứ gì cho chúng ta không? Vậy các nước Mĩ, Nhật, Tây Âu liệu có cho chúng ta "Viện trợ không hoàn lại" như đúng nghĩa của nó không?


Họ và tên: Khánh Duy
Địa chỉ:
Email: lonelymagician81@yahoo.com

Mỗi người đều có quan điểm đánh giá khác nhau. Perkins không phải không có lý của ông khi phê phán các tập đoàn. Cả cuộc đời Perkins đi khắp thế giới, hiểu biết rất nhiều về sự vận hành của hệ thống này. Ông viết cuốn này tương đối chủ quan, phê phán Mỹ thậm chí thoá mạ, nhưng theo tôi có thể có hai lý do:

1) Perkins vẫn nhìn thấy mặt tích cực nhưng có thể "cố tình" viết tiêu cực, nặng nề như vậy để kêu gọi sự thay đổi từ phía người dân và các tập đoàn. Một cuốn sách mang tính tuyên ngôn cho một quan điểm, nó không thể trung dung được mà buộc phải cực đoan.

2) Perkins với những kinh nghiệm làm sát thủ kinh tế của mình quá bị ảnh hưởng bởi những mặt tiêu cực. Ông viết từ những "thiên vị" của mình, cách nhìn tiêu cực của mình, không cần để ý tới khía cạnh tích cực.

Bản thân tôi ủng hộ toàn cầu hóa mà sau khi đọc xong mấy cuốn này cũng phải suy nghĩ lại một số quan điểm cũ của mình.

Nên đọc và coi đó như tài liệu tham khảo để có hiểu biết khách quan hơn.


Họ và tên: Minh Hải
Địa chỉ: Hải Phòng
Email: minhhaikt@gmail.com

Quyển sách này chẳng nói lên được điều gì cả, chỉ là cực đoan một chiều chẳng còn thích hợp chút nào cho hoàn cảnh hiện tại hoặc là chỉ làm lệch hướng tư duy của chúng ta mà thôi!

Vì như tất cả chúng ta biết rằng bản chất của buôn bán là trao đổi 2 chiều và anh phải có cái gì để trao đổi với người ta mới chính là vấn đề, nếu anh có chất xám thì anh có thể dùng chất xám để trao đổi, nếu anh có tài nguyên thiên nhiên thì anh có thể khai thác để trao đổi lấy những thứ mà mình không có khả năng làm.

Ở đây tác giả chỉ đề cập có một chiều nghĩa là tác giả chỉ thấy các các nước phát triển như Mỹ hoạt động khai thác tài nguyên thiên nhiên của nước thế giới thứ 3 mà không thấy lợi ích của việc các nước này có thể tiếp cận với các sản phẩm kỹ thuật cao của Mỹ. Giả dụ tôi xin hỏi bạn Trung Hiếu là nếu Arab Saudi không khai thác và bán dầu cho Mỹ thì họ có thể giàu có đến như thế hay không hay dân họ sẽ phải chịu đói khổ trên cái sa mạc khô cằn mà đầy dầu mỏ đấy?

Còn bạn nói là Mỹ hay các nước phát triển o ép các nước xuất khẩu tài nguyên thì bạn càng lầm to vì tất cả chúng ta đều biết rằng giá dầu thế giới đang bị thao túng bởi tổ chức OPEC như thế nào rồi?

Ngược lại nếu Intel,IBM, AMD... mà hình thành một tổ chức độc quyền để thao túng giá chip thì ngay lập tức các bạn sẽ thấy chính phủ Mỹ áp dụng luật chống độc quyền ra sao


=> Tớ chưa đọc cuốn này nhưng qua lời giới thiệu thì thấy nó cũng hấp dẫn giống "Hồi ký của một sát thủ kinh tế" (free direct download link) cũng của John Perkins. Nhà sách Alpha cũng sắp xuất bản cuốn này (da xuat ban 11/2008), tuy nhiên, những ai đam mê thì chịu khó đọc bản english này đi. Đơi khi nào đọc xong thì tớ sẽ comment tiếp, còn ai đọc rồi thì có thể comment cho mọi ngừơi hiểu thêm nha.

Free download here
No commerce, pls!!

Friday, October 24, 2008

Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó (The Credit Crisis of 2008 and What It Means)




Mô Thức Mới Cho Thị Trường Tài Chính - Cuộc Khủng Hoảng Tín Dụng Năm 2008 Và Ý Nghĩa Của Nó
Tác giả: George Soros. - Dịch giả: Phạm Tuấn Anh. Hoàng Hà.
Nhà xuất bản: Nxb Tri Thức

Số trang: 284
Hình thức bìa: Bìa mềm
Kích thước: 13x20 cm
Ngày xuất bản: 10 - 2008
Trọng lượng: 260 gram
Số lần xem: 30
Giá bìa: 43.000 VNĐ

Giới thiệu về nội dung

Chúng ta đang trải qua cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ nhất kể từ những năm 1930. Về vài điểm, khủng hoảng lần này giống với các cuộc khủng hoảng khác từng xảy ra trong hai mươi lăm năm qua nhưng lại có một sự khác biệt sâu sắc: khủng hoảng hiện tại đánh dấu sự kết thúc cho một kỷ nguyên phình đại tín dụng với đồng đô la Mỹ là đồng tiền dự trữ quốc tế. Trong khi những khủng hoảng theo chu kỳ là một phần của chu trình bùng vỡ (boom-bust); thì khủnghoảng hiện tại lại là đỉnh điểm của một pha bùng phát đã kéo dài trong hơn hai mươi lăm năm.

Để hiểu được điều gì đang diễn ra, chúng ta cần một mô thức mới. Mô thức thịnh hành quan niệm rằng thị trường tài chính luôn có khuynh hướng tự trở về trạng thái cân bằng là quan niệm sai lệch; nói chung chúng ta có thể quy những rắc rối hiện nay cho chính việc hệ thống tài chính quốc tế lâu nay đã bị phát triển dựa trên mô thức đó.

Là nhân vật số một trong giới tài chính, George Soros được coi là người “một tay che cả bầu trời”, là người có thể làm mất giá bất kỳ một thứ tiền tệ nào trên thế giới, hoặc thậm chí gây ra những cuộc khủng hoảng kinh tế với qui mô toàn cầu.

Trong Mô thức mới cho thị trường tài chính, Soros đã dùng kinh nghiệm và lí luận của mình để phân tích một cách sâu sắc và thẳng thừng cuộc khủng hoảng hiện tại, đồng thời dự đoán cho cả tương lai.

George Soros đã làm được một việc vô giá: Giúp chúng ta hiểu rõ về cuộc đại khủng hoảng tín dụng và ảnh hưởng của nó lên kinh tế toàn cầu.

Mục lục:

Lời giới thiệu

Bối cảnh

Phần I: Tổng quan

Chương 1: Ý tưởng cốt lõi

Chương 2: Tự truyện của một triết gia bất thành

Chương 3: Thuyết phản hồi

Chương 4: Tính phản hồi trong thị trường tài chính

Phần II: Khủng hoảng hiện tại và sau đó

Chương 5: Giả thuyết siêu bong bóng

Chương 6: Tự truyện của một nhà đầu cơ thành công

Chương 7: Dự phóng của tôi cho 2008

Chương 8: Một vài khuyến nghị về chính sách

Kết luận

Về tác giả.



From tuoitre
Cuốn sách tôi đang đọc

Chuyên gia kinh tế Huỳnh Bửu Sơn: Không tiếc thời gian với George Soros
TT - Là chuyên gia kinh tế, những cuốn sách với ông Huỳnh Bửu Sơn là một hành trang không thể thiếu trong những chuyến đi đông đi Tây. Ông đọc nhiều loại sách: triết học, chính trị, xã hội, đặc biệt là sách kinh tế - tài chính, mà mới đây nhất là tác phẩm của George Soros.

* Mô thức mới cho thị trường tài chính vừa phát hành ở VN, chỉ ngay sau thời điểm phát hành ở Mỹ vài tháng, có phải sự nhanh nhạy ấy làm ông chú ý?

- Không, cái chính là George Soros đã lý giải một vấn đề rất thời sự ngay trước khi nó thật sự bùng nổ. Ông được xem là một nhà phù thủy tài chính vì những thành công vang dội với tư cách một nhà đầu tư tài chính và tiền tệ trong suốt hơn năm thập kỷ, nhưng ông lại thích ví mình là một triết gia, dù là - như ông tự nhận - một triết gia bất thành.

* Là một chuyên gia kinh tế, ông tìm thấy điều gì thú vị từ cuốn sách này?

- Mô thức mới cho thị trường tài chính được phát hành đầu năm 2008, lúc cơn khủng hoảng tài chính toàn cầu đang trong giai đoạn khởi phát. George Soros đã đưa ra những lý giải về hiện tượng bong bóng và siêu bong bóng tài chính trong quá trình lịch sử bùng vỡ của nó dựa trên lý thuyết phản hồi của mình - một lý thuyết nhấn mạnh về tác động của con người vào môi trường, nhất là thị trường tài chính.

Tác động đó ông gọi là "chức năng thao túng", làm thay đổi những yếu tố cơ bản của thị trường và làm thị trường mang một đặc tính mà ông gọi là "tính có thể sai triệt để". Ðiều này làm thị trường không thể nào tự điều chỉnh và trở về trạng thái cân bằng như các lý thuyết kinh tế học, những học thuyết mà theo ông: "... các giả thiết ngày càng trở nên rối rắm đã cho ra đời một thế giới tưởng tượng chỉ phản ánh được vài khía cạnh nào đó của thực tại".

Soros đã dành gần phân nửa quyển sách trình bày về lý thuyết phản hồi của ông, lý thuyết mà ông đã ấp ủ trong hơn 20 năm hoạt động trên thị trường tài chính. Nhưng điều hấp dẫn trong quyển sách mới nhất của Soros là ông đã phân tích đúng đắn và lạnh lùng nguyên nhân và hệ quả của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu hiện nay, tiên đoán khá chính xác về vai trò can thiệp của các chính phủ Mỹ và châu Âu để sửa chữa sai lầm.

Ông cho rằng nền kinh tế Mỹ sẽ phải mất nhiều năm để vượt qua suy thoái, đồng đôla sẽ tiếp tục quá trình suy yếu của nó, trong khi Trung Quốc và Ấn Ðộ sẽ vượt qua khủng hoảng thành công. Ông cũng tiết lộ "chiến lược đầu tư 2008" của mình trong phần cuối quyển sách, điều mà độc giả của ông - những nhà đầu tư chứng khoán và tiền tệ - sẽ rất quan tâm.

Tuy cho rằng các chính phủ sẽ phải có những hành động cần thiết để điều tiết thị trường tài chính trong tương lai, nhưng ông vẫn tin tưởng vào xã hội mở và cho rằng "thế giới đầy những điều không chắc chắn và thị trường có thể điều chỉnh thích nghi với những hoàn cảnh đổi thay tốt hơn là những công chức hành chính".

* Ông có vẻ rất tâm đắc với những tiên đoán của "phù thủy" Soros?

- Chỉ riêng thương hiệu George Soros cũng đủ để đảm bảo rằng bạn đọc - nhất là những người quan tâm đến thị trường tài chính - sẽ không hề phí thời gian khi bỏ công nghiền ngẫm nó.

V. VIỆT thực hiện

From tuanvietnam.net

Trong cuốn sách mới được xuất bản tại Việt Nam Mô thức mới cho thị trường tài chính, nhà đầu cơ tài chính George Soros đã lý giải cuộc khủng hoảng hiện nay dưới một góc nhìn khái quát nhưng cũng rất cụ thể từ trải nghiệm của người trong cuộc.
Một bài báo phê phán George Soros đăng trên tờ Jewish World Review đã mở đầu bằng một câu chuyện hài hước thế này:

Trong một bộ phim, diễn viên Peter Sellers đã thủ vai một nhân vật mà chúng ta không biết dùng từ nào để diễn tả hợp hơn từ tâm thần có vấn đề. Thế mà, người ta lại cứ coi ông ta như một thiên tài. Trong cuộc họp báo, phóng viên hỏi ông nghĩ gì về đất nước Trung Quốc. Thiên tài trầm ngâm, cúi đầu rồi chậm rãi trả lời: "Đất nước Trung Quốc toàn là… người Trung Quốc". Đám đông phóng viên ở dưới gật đầu lia lịa, tán thưởng trí tuệ của thiên tài và thì thầm với nhau: "Toàn người Trung Quốc, đúng quá rồi".

Cũng đúng như vậy với người có tiền, khi anh có nhiều tiền, chẳng ai nghĩ anh điên cả. Hoạ chỉ có người nghèo mới điên. Khi một người giàu đến dạ hội với một bộ cánh kỳ quặc thì những người khác sẽ nghĩ rằng chính cách ăn mặc

Sự thật là Soros có quá nhiều tiền, năm 2004, ông đứng thứ 24 trong danh sách những người giàu nhất thế giới, tài sản của ông hiện tại khoảng 9 tỉ USD. Và nhà đầu cơ huyền thoại này lại là một kẻ lắm tiền hay "nói", ông viết đến cả chục cuốn sách từ kinh tế tới chính trị. Tất nhiên, chỉ tên tuổi của nhân vật được coi là "Mozart của thị trường chứng khoán" này đã khiến người ta quan tâm đến những điều ông nói rồi, đặc biệt khi ông nói về tài chính.

Và những điều "thiên tài" nói không hề "ngu ngốc" như câu chuyện mỉa mai trên, điều đó thể hiện rõ trong tác phẩm mới nhất của ông Mô thức mới cho thị trường tài chính.

"Triết học" của một "triết gia bất thành"

Soros như thường lệ không bắt đầu một cuốn sách bằng cách đi ngay vào vấn đề chính mà ông bắt đầu bằng triết học. Đó là điểm đặc biệt của ông. Soros xây dựng cho người đọc một bộ khung tư duy triết học sau đó mới dùng khuôn mẫu tư duy đó áp vào chủ đề chính, cụ thể trong cuốn sách này là cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008.

Khung tư duy của Soros vẫn là một lý thuyết mà ông gọi là lý thuyết phản thân (Bản tiếng Việt dịch là phản hồi nhưng tôi cho rằng từ phản thân hợp lý hơn khi nói đến một mối liên hệ mà một vật có với chính nó).

Lý thuyết này cho rằng các hiện tượng xã hội có một cấu trúc khác so với hiện tượng tự nhiên. Trong hiện tượng tự nhiên, người quan sát và hiện tượng độc lập với nhau, diễn trình của hiện tượng không phụ thuộc vào người quan sát. Ví dụ, người quan sát có đứng ở đâu thì trái đất vẫn quay, họ không thể thay đổi thực tế đó.

Nhưng trong hiện tượng xã hội thì ngược lại, người quan sát trực tiếp tác động làm thay đổi hiện tượng chứ không chỉ đơn thuần là nhận thức chúng. Soros gọi đó là chức năng thao túng.

Ví dụ, Karl Marx cho rằng lịch sử là một quá trình tiếp nối các hình thái kinh tế xã hội, chủ nghĩa tư bản rồi đến chủ nghĩa cộng sản. Khi đó, ông không chỉ dừng lại ở việc nhận thức quá trình thay đổi mà thực chất đã tác động vào quá trình đó.

Những người đi sau đã ứng dụng học thuyết của ông để xây dựng chủ nghĩa cộng sản ngay cả ở những quốc gia mà tư bản chủ nghĩa mới manh nha hoặc chưa định hình. Như vậy, con người không chỉ nhận thức hiện tượng xã hội mà còn thao túng để thay đổi chúng theo nhận thức của mình.

Nhưng nhận thức con người theo Soros luôn không hoàn hảo và có thể sai, thậm chí triệt để sai. Những nhận thức sai hay ngộ nhận này tác động làm thay đổi hiện tượng xã hội theo những con đường bất định, không đúng với những khung lý thuyết sẵn có mà chúng ta vẫn coi như chân lý. Ví dụ trong lĩnh vực kinh tế học là lý thuyết cân bằng: hành vi con người dựa trên cơ sở thông tin, nhận thức hoàn hảo cho nên giá cả thị trường luôn có xu hướng chạy về điểm cân bằng.

Sự thực là nhận thức không hoàn hảo và luôn sai nên "thị trường rời khỏi trạng thái cân bằng với tần suất cũng ngang với chúng tiến lại trạng thái cân bằng ấy". Khi ấy, thị trường không tuân theo quy luật cân bằng mà tuân theo quy luật bùng-vỡ (boom-bust). Giá cả tăng theo kiểu "bong bóng" rồi nổ tung dẫn tới sụp đổ, phá sản hàng loạt chứ không tự điều chỉnh cân bằng.

Đó chính là khủng hoảng và theo Soros thì nhiều cuộc khủng hoảng tài chính đặc biệt là cuộc khủng hoảng hiện nay đã diễn tiến theo mô thức đó.

Mô thức tài chính mới của một "kẻ đầu cơ"

Từ triết học, Soros chuyển bước sang lĩnh vực sở trường của mình là tài chính. Nhân vật được mệnh danh là "Robin Hood tài chính" đã lý giải đâu là những ngộ nhận dẫn tới quá trình bùng-vỡ tạo ra cuộc khủng hoảng trầm trọng hiện nay.

Theo Soros, quá trình bùng-vỡ này không chỉ là hệ quả của một bong bóng bất động sản như lý giải của các nhà nghiên cứu khác mà còn của một siêu bong bóng kéo dài 25 năm qua. Mọi bong bóng đều bao gồm một xu thế chủ đạo và một ngộ nhận chủ đạo tương tác với nhau theo kiểu phản thân.

Như nhiều nhà quan sát khác, Soros cho rằng xuất phát điểm trực tiếp tạo ra cuộc khủng hoảng hiện nay là sự hình thành của bong bóng trên thị trường bất động sản Hoa Kỳ. Bong bóng này là kết quả từ xu hướng chủ đạo là việc FED hạ lãi suất liên tục xuống còn 1% để kích thích nền kinh tế sau khi bong bóng công nghệ nổ tung năm 2000 và sự kiện khủng bố 11/9/2001. Lãi suất thấp kéo dài tới giữa năm 2004 đã tạo ra bong bóng bất động sản quy mô lớn.

Tín dụng lỏng và rẻ đã khiến người đi vay "nô nức" vay còn kẻ cho vay thì tìm mọi cách tối đa hóa lợi nhuận bằng cách nới lỏng các tiêu chuẩn cho vay thế chấp. Người có "xếp hạng mức độ tín dụng kém cũng dễ dàng vay được tiền mua nhà" (các khoản vay dưới chuẩn). Những người có ít hoặc không có giấy tờ chứng minh thu nhập thậm chí không thu nhập, không nghề nghiệp, không tài sản, cũng có thể vay để mua nhà với tài sản thế chấp là chính căn nhà đó.

Cầu nhiều tất giá nhà đất càng được đẩy lên theo kiểu "bong bóng", dẫn tới hiện tượng đầu cơ tràn lan. Đa số "con bạc" trong cuộc chơi này đều ngộ nhận rằng: "giá trị của tài khoản cầm cố nhà đất đó không bị ảnh hưởng bởi sự sẵn lòng cho vay". Giá vẫn lên và tất cả "vẫn phải đứng dậy và tiếp tục khiêu vũ" theo lời chủ tịch CitiBank Chuck Prince. Ngộ nhận rằng giá trị tài sản cầm cố không thể suy giảm với độ mở tín dụng như vậy đã khiến người ta lao vào một cuộc chơi bùng nổ rồi vỡ tan chứ không quay về điểm cân bằng.

Điểm khác biệt hơn trong lý giải của nhà tài chính năm nay 78 tuổi George Soros là ở chỗ ông đã phóng chiếu một tầm nhìn rộng hơn về một bong bóng khác mà ông gọi là siêu bong bóng. Bong bóng này là sự phình đại tín dụng mang tính toàn cầu, bãi bỏ những quy định kiểm soát thị trường chặt chẽ và làm "nảy nòi" hàng loạt những "phương pháp và công cụ tài chính mới, tinh vi đễn nỗi giới điều tiết cũng mất luôn khả năng tính toán những rủi ro đi kèm."

Là "người trong chăn" của giới tài chính, Soros quá thấu hiểu và đưa ra những thông tin rất cụ thể về những công cụ tài chính phức tạp, đan xem nhau đã góp phần tạo ra cuộc khủng hoảng dây chuyền ở phố Wall.

Các ngân hàng cho vay thế chấp bất động sản đã tối thiểu hóa rủi ro của họ bằng cách đóng gói chúng lại thành những chứng khoán có tên gọi giấy nợ có thế chấp (CDOs). Các CDOs này được bán lại cho các nhà đầu tư và trở thành một "cơn cuồng" từ năm 2005. Hơn thế nữa, các quỹ đầu tư phòng hộ (hedge fund) lại bước vào thị trường bảo hiểm cho các CDOs này theo các hợp đồng hoán đổi vỡ nợ tín dụng (CDSs), một hình thức bảo hiểm trong trường hợp xảy ra vỡ nợ.

Rồi khi giá trị của những CDOs bị nghi ngờ, các ngân hàng đầu tư lại đưa chúng ra khỏi bảng cân đối tài sản và đưa vào những công cụ đầu tư kết cấu (SIVs). Các SIVs cung cấp tài chính cho các khoản đầu tư này bằng cách phát hành những thương phiếu được đảm bảo bằng tài sản… Các công cụ tài chính phức tạp mới được phát minh lại dựa trên một cơ sở thiếu lành mạnh là việc cho vay thế chấp địa ốc dưới chuẩn, tất cả đã dẫn tới sự sụp đổ của các "ông lớn" ở phố Wall.

Soros cho rằng, siêu bong bóng hình thành dựa trên xu hướng chủ đạo là những công cụ tín dụng ngày càng mở rộng và phức tạp hơn. Ngộ nhận chủ đạo ở đây là sự tin cậy thái quá vào cơ chế thị trường. "Chủ nghĩa thị trường đã trở thành một tín điều thống trị Hoa Kỳ vàơ năm 1980 khi Ronald Reagan trở thành tổng thống Hoa Kỳ và Margaret Thatcher trở thành thủ tướng Anh."

Theo Soros thì chủ thuyết này sai lầm ở chỗ nghĩ rằng thị trường luôn hoàn hảo và trở về cân bằng. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại ở thị trường tài chính, nếu cứ để mặc cho thị trường phát triển với những phương pháp và công cụ tinh vi của nó thì tất yếu "sẽ đi tới những trạng thái cực đoan" như cuộc khủng hoảng đang diễn ra.

George Soros đã khá đáng yêu khi thừa nhận rằng mặc dù lý thuyết của ông đã được công bố nhiều năm nhưng "không được giới hàn lâm coi là nghiêm túc", và "chính tôi cũng nghi ngờ không hiểu những điều tôi nói có mới và ý nghĩa hay không?"

Ảnh hưởng bởi triết học Popper, Soros khiêm tốn nhận định "chân lý tối hậu nằm ngoài tầm với của con người" và những suy nghĩ của ông "không phải là kết luận mà chỉ là sự khởi đầu."

(theo T.V.N)

=> Tớ đã đọc cuốn này (bản english) thì thấy không mấy lôi cuốn nhưng thấy mấy nhà sách này quảng cáo và ra đời cuốn này trong thời điểm "loạn lạc" lúc này thì có vẻ là câu khách.
Download english version here.
No commerce, pls!!

Sunday, October 5, 2008

Nhật Tân có ông Hành mê "đặc sản" sách...

Theo ông Hành, cà phê giúp con người tỉnh táo về mặt sinh học còn sách giúp con người tỉnh táo về mặt lý học. Ông đã mở quán cà phê sách và dành gần hết đời người để chăm chút, tìm kiếm và lưu giữ những cuốn sách để tự học làm người và dạy con nên người.

Không cầu kỳ, không hoa mỹ, đèn xanh đèn đỏ như các quán nhái Tây, nhái Tầu trên các con phố mặt tiền bạc triệu, quán ông Hành nằm gọn trên đường Âu Cơ, nép mình vào triền đê Nhật Tân.

Người ta đến với ông, chỉ một phần nhỏ để nhâm nhi cà phê mà đa phần sự lôi cuốn của lòng hiếu học, hiếu đọc có trong mình và có trong ông già yêu sách.

Bán của mua sách

Ở vào cái thời “sáng khoai, chiều sắn, tối hớp trà ấm bụng”, ông Hành mê sách là có vấn đề to. Cái tuổi chăn trâu cắt cỏ đâu có cho ông một suy nghĩ xuyên thấu cả cuộc đời là sưu tầm sách để mai sau cho con cháu. Thế mà, cứ như một thứ men say, ông ngược xuôi trọn đời để chắt chiu những cuốn sách cổ nhất thời ông sống.

Gần 50 yêu và đam mê sưu tầm sách, nay ông Hành đã sở hữu tới 3.600 đầu sách quý từ cổ đến kim. Mở ngăn tủ vẫn thơm mùi sơn, ông giới thiệu lịch sử từng cuốn sách như đánh thức từng năm tháng ông đã đọc và thấu nó.

Có những cuốn xuất bản từ những năm 1932 như cuốn Từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh; Vang bóng một thời của nhà văn Nguyễn Tuân xuất bản 1945; 42 quyển sách trong bộ Tổng tập văn học Việt Nam của tác giả Đinh Gia Khánh; 10 bản truyện Kiều xuất bản qua các thời kỳ; Bát đại kỳ thư của Trung Quốc: Tam quốc diễn nghĩa, Hồng lâu mộng, Thủy Hử, Sử ký tư mã thiên...; nhiều tác phẩm văn học kinh điển của Nga, Pháp: Chiến tranh và hòa bình, Thằng gù nhà thờ Đức bà Pa-ri; Thám tử Sơ-lốc-hôm; Thép đã tôi thế đấy...

Sách của ông khoác lên mình hai chữ “giá trị” không phải ông có trong tay những cuốn kinh điển mà là ở giai đoạn hiện nay khó mà tìm thấy quyển thứ hai.

Hồi xưa, sách xuất bản hạn chế dưới sự đô hộ của chính quyền thực dân. Trên nền giấy gió nâu nâu, có những cuốn được in chìm những hoạ tiết thiên nhiên mà sau một đời người nó vẫn sống động như vừa mới ra lò.

Đi lục tung tất cả các cửa hàng sách khó mà kiếm được những quyển sách như thế. Giá trị văn hoá và nhân văn ẩn hiện trong những trang sách ánh nên vẻ mỹ miều, tẩn mẩn đến thủ công trong công nghệ in thời lệ thuộc.

Lật lại cuộc đời như đầy ải của ông mới thấm hết giá trị từng cuốn sách ông có. Không chỉ là những trang giấy có được mà đó là sự chắt chiu từ một thời ký ức mà khi đốt than, ông vẫn dành dụm tiền mua sách, khi thất nghiệp ông cũng không quên... mua sách...

Cụ bà thân sinh ra ông xưa là người con gái đẹp trong vùng, sống trong gia đình nề nếp gia phong. Ông thừa hưởng con chữ từ bà mẹ vừa đẹp người lại vừa có chữ. Chuyện đàn bà, con gái ngày xưa biết chữ hiếm lắm, như lá thu đọng lại trên từng cọng cành khô.

Hồi ấy, mỗi khi công việc nhà rảnh, bà thường kẹp nách cuốn Lưu Bình – Dương Lễ để đọc. Cậu Hành tóc trái đào thường được mẹ nhờ đọc mỗi khi mỏi mắt. Từ ấy, thú vui đọc cho người khác đã dần hằn trong nếp nghĩ của cậu.

Như cây con bám được đất tốt, cậu đọc mê hồn trận tất cả những gì cậu nhìn thấy, cốt là có chữ. Tưởng chừng nghiệp đèn sách sẽ theo ông suốt cuộc đời để vầng trán cao như một nghệ sĩ kia sẽ chẳng phí hoài giữa bể khổ.

Sau những biến động lịch sử, gia đình thất thế, hết lớp 6, cậu trò nhỏ Nguyễn Thế Hành phải đi kiếm sống. Lao thân đi kiếm sống bằng đủ thứ nghề vừa để thân và vừa nuôi mộng với sách.

Trong thời buổi, bát cơm, tấm áo là thứ mà người đời khát cháy họng, ông lại khát... sách. Nếu không được "uống" nó, ông sẽ héo khô trong tuyệt vọng. Có những giai đoạn phải chui ra chui vào lò than, rồi lang thang đạp xích lô, làm nghề bốc vác thu nhập rất bếp bênh và bèo bọt.

Ông tưởng như mình phải đoạn tuyệt với thú đọc sách vì cuộc sống muôn vàn khó khăn cứ chất lên tấm thân gầy còm và ngày càng oằn xuống theo năm tháng nhưng dường như lại không phải thế!

Chính thời gian này ông lại mua sách, đọc sách hăng say hơn và lại dành nhiều thời gian hơn để đọc sách vì càng đắm chìm vào niềm đam mê ấy, ông như thấy mình được chia sẻ, đuợc an ủi và được tiếp thêm sức mạnh để đi tiếp trên đường đời nhọc nhằn.

Đời ông sao nhiều cái lạ lùng khó đoán. Ắt hẳn ai mê sách đều có sự hiếu học và rồi sẽ gây dựng công danh quanh chồng sách nhưng ông lại khác. Ông không thể, đúng hơn là thời thế không cho phép ông học hành vì hoàn cảnh gia đình mấy chục miệng ăn trông chờ.

Cái mộng làm thầy giáo của ông cũng lụi đi theo từng bước chân mệt mỏi của ông. Ông sẵn sàng đánh đổ tất cả để có được sách nhưng đành bất lực vì ngồi trên kho kiến thức quý mà đôi cánh đời ông không thể bay lên được.

Cái đói, cái rét đeo bám dai dẳng quanh ông nhưng không kiềm được cái khát vọng si mê sách. Của cải vô hình đã theo bước chân vạn dặm của thần thời gian trôi vào dĩ vãng còn của cải hữu hình vẫn còn văng vẳng bên tai mỗi khi ông nhắc lại cho bạn đọc đang cầm cuốn sách trên tay được đánh đổi bằng gì.

Cuốn Giăng thề của Tô Hoài ông đứt ruột đổi cho người bạn bể cá vàng óng đẹp mê li mà ông coi đó là tài sản quý nhất trong nhà.

Khi cái máu mê nó dâng lên thì nó có thể cuốn trôi bất cứ vật cản nào, kể cả những vật cản khó chọc thủng nhất bên trong tâm khảm mỗi người. May thay, cái máu mê của ông là cái máu nhân văn, đạo đức.

Ông tâm sự: “Quốc gia, tổ chức đã làm được cách mạng thì cá nhân cũng có thể làm tiểu cách mạng nhưng ý nghĩa vô cùng to lớn. Tôi học theo con đường truyền thống rất ít, có thể nói là chỉ bập bẹ thông thạo tiếng mẹ đẻ chứ chưa vành rõ nhưng nhờ sách mà tôi đã mở ra nhiều điều mà người học bài bản không có được”.

Cà phê + sách = nghệ thuật sống

Giờ đây khi đời sống của ông và gia đình đã đi qua thời “bão lửa”, ông bắt đầu có nhiều thời gian hơn chăm chút, nuôi duỡng niềm si mê sách của mình. Ông có nhiều thời gian hơn để la cà, lang thang ở những hiệu sách cũ và mới để lựa chọn những cuốn sách mà ông yêu thích.

Ông đã có một “gia tài” sách của riêng ông và không muốn chỉ giữ nó cho riêng mình mà muốn chia sẻ thú vui đọc sách và sưu tầm sách với những người cùng có niềm đam mêm.

Quán cà phê nhỏ nhỏ mở ngay tại nhà và đấy là nơi mà như ông chia sẻ đó là “không gian của sách”. Ông muốn những người ham mê sách có một không gian yên tĩnh, thoáng đãng để đọc sách, để suy ngẫm, để trao đổi về những cuốn sách hay, những nội dung có giá trị nhân văn cao cả.

Ông cho rằng “thích sách, muốn đọc sách đã là quý lắm rồi nhưng biết đọc sách mới thật sự là biết yêu sách”. Quan trọng nhất khi đọc là phải đọc sâu, từ đó có những suy nghĩ, tìm tòi để phát triển trí tuệ cũng như tâm hồn.

Thế nhưng, người đọc Việt Nam bây giờ lại thường chỉ đọc sách khi có mục đích cụ thể. Bởi thế khi nhiều thanh niên đến uống cà phê quán ông, cứ hỏi dò la có những cuốn kiểu như “Hạt giống tâm hồn” hay “Tuổi 17” không?

Ông vui vẻ giới thiệu những cuốn dầy cộm đặt vuông vắn trên giá nhưng nhiều chàng lè lưỡi, ngao ngán lắc đầu. Theo ông “Văn hoá đọc là gì, là biết cách đọc sách, phải đọc sách theo sở thích cũng như là khi ăn theo khẩu vị. Khi thấy nó ngửi đã thấy ngon, ăn vào càng nhiều và cũng dễ hấp thụ”.

Khi đọc phải có tâm thế của người có văn hoá đọc. Trước nay người ta nói nhiều đến văn hoá đọc không phải là đọc ít, đọc không hăng say mà ẩn chứa trong sau đó là cả một tâm thế đọc. Ngồi vẹo vổng, nằm chổng chân mà đọc là văn hoá chăng?

Khi trước, các cụ muốn đọc một cuốn sách hay sáng tác đều đứng nghiêm trang trước bàn thờ tổ tiên, thắp nén nhang thơm rồi mới dám đọc.

Với hơn 60% “gia tài” sách là sách quý hiếm, ông âm thầm lặng lẽ tạo ra một không gian văn hóa nhỏ để là nơi đi về của nhiều độc giả ở nhiều lứa tuổi khác nhau. Không gian sách của ông đã từng là nơi giao lưu, gặp gỡ của nhà thơ, nhà văn, giới làm nghệ thuật và cả những người đang quan tâm và bàn luận về văn hóa đọc hiện nay của giới trẻ.

Những buổi nói chuyện, trao đổi như vậy đã khiến không ít người ngỡ ngàng trước tầm trí tuệ và chiều sâu tâm hồn của ông Hành. Có nhà thơ khi biết và đến với quán cà phê của ông để đọc sách để được gặp ông, trò chuyện cùng ông đã không khỏi xúc động phóng bút tặng ngay ông bài thơ để bày tỏ lòng yêu mến và ngưỡng mộ một con người có tâm hồn và nghiệp đam mê sách như ông.

Được biết bác nghèo nhưng yêu sách
Học ít nhưng nhiều mộng văn chương
Chữ nghĩa chẳng chê người áo rách
Không là trọc phú - vẫn cao sang.

Thời buổi người ta chỉ mê tiền
Ai mà mê sách có mà điên
Nhưng thôi thời thế nay như thế
Ai người địa ngục, ai là tiên.


Mở quán cà phê mong kiếm sống
Ai vào thưởng thức sách cổ kim
Góc khuất nhìn đời con mắt sáng
Luật đời “hiểu lẽ” biết lặng im.

Để sách giãy bày chuyện xưa nay
Cà phê tỉnh mộng giữa ban ngày
Nhật Tân có quán “Cà phê - Sách”
Ai thích thì vào phút giải khuây

Ông may mắn có một người bạn phục cái tâm của ông như tác giả bài thơ Nguyên Khôi. Nhưng cả một đời người đã cúi rạp tấm thân nâng đỡ sách, nên chắc ông không có gì phải hổ thẹn cho Nguyễn Thế Hành đi vào thơ.

* Đức Chính – Thanh Duyên (04/10/2008)
[From TuanVietNam]

Friday, October 3, 2008

THE FALL OF NORTHERN ROCK - Sự sụp đổ của Northern Rock




Tên sách: THE FALL OF NORTHERN ROCK (The Insider’s Story of Britain’s Biggest Banking Disaster)
Sự sụp đổ của Northern Rock (Câu chuyện bên trong thảm họa ngân hàng tồi tệ nhất Anh Quốc)
Tác giả : Brian Walters
Phát hành: Harriman House
Dịch giả: Hùng Anh. Phương Thảo.
Nhà xuất bản: Nxb Lao động Xã hội
Giá bìa: 53.000 VNĐ
Ngày xuất bản: 09 - 2008

Giới thiệu về nội dung

Câu chuyện kinh hoàng về thảm hoạ lớn nhất trong lịch sử ngân hàng Anh

“Tháng 9 năm 2007, một bức tranh hổn loạn ở tất cả các chi nhánh của Northern Rock đã minh chứng cho lịch sử thấy điều gì sẽ xảy ra khi niềm tin của dân chúng vào một ngân hàng biến mất. Nếu sự sụp đổ của Northern Rock đã làm được điều gì đó, thì đó chính là bài học để tránh một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai.

Brian Walters đã làm việc trong ngân hàng được 36 năm. Anh bắt đầu sự nghiệp tại ngân hàng Barclays từ năm 1971, sau đó làm trưởng phòng điều hành tại chi nhánh ở Coventry năm 1992 rồi chuyển xuống Leeds năm 1999 với vị trí trưởng bộ phận kinh doanh ở thành phố West Yorkshire. Năm 2005, anh tự hào vì được làm việc cho Northern Rock. Đến năm 2007, anh vô cùng thất vọng khi chứng kiến sự sụp đổ của ngân hàng.

Một số những hình ảnh đáng nhớ nhất của năm 2007 - nếu không nói là của một thập kỷ - là hình ảnh hàng ngàn người xếp hàng lần luợt tại trước cửa các chi nhánh của hệ thống ngân hàng Northern Rock để rút tiền. Không ai có thể tin được điều này lại có thể xảy ra ở nước Anh vào thế kỷ 21.

Sự sụp đổ của Northern Rock nói về quá trình phát triển của Northern Rock, từ một đơn vị tài chính được tin tưởng và nhiều người mơ ước nhất nước Anh lại bị sụp đổ một cách dễ dàng. Cuốn sách cho chúng ta thấy một Northern Rock trước, trong và sau khủng hoảng. Cuốn sách cần thiết cho bất kỳ ai muốn tìm hiểu về sự thật đằng sau thành công cũng như việc rút tiền hàng loạt xảy ra lần đầu tiên ở Anh vào năm 1866.

Mục lục:

Lời giới thiệu

Bắt đầu tại ngân hàng Northern Rock

Lược sử ngân hàng Northern Rock

Bộ phận tài chính thương mại

Một khởi đầu không thuận lợi

Tiếp tục tăng trưởng

2006 - một năm của lạc quan và tăng trưởng

Những dấu hiệu khó khăn đầu tiên

Khoảng chi ngắn

Phía sau bức màn

Rút tiền hàng loạt

Hậu quả tức thì

Ban giám đốc Northern Rock bị thảm tra

Cố tìm một giải pháp cứu nguy

Giải pháp ưa thích - tiếp quả

Tạm biệt Northern Rock

Thông báo quốc hữu hoá

Sai ở đâu?
- Mô hình kinh doanh từ an toàn chuyển qua rủi ro khi tốc độ tăng tiền gửi (hơn 2 lần) thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng các khoản vay (6 lần). Việc thiếu nguồn vốn cho vay đòi hỏi NR phải đi vay và NR đã sử dụng nguồn vay ngắn hạn trên interbank để cho vay thế chấp dài hạn.
- Muốn phát triển nhanh nên bất chấp rủi ro khi thị trường phát triển quá nóng nhưng NR vấn tiếp tục tăng tốc độ phát triển tín dụng.
- Ban kiểm soát (nội bộ lẫn chính phủ) không giám sát chặt chẽ.
- Financial Services Authority, Bank of England và Treasury Secretary không thống nhất trong biện pháp hỗ trợ NR. Lý do chính yếu là lo ngại "tâm lý ỷ lại" (moral hazard)
- Ngoài ra, sự sụp đỗ của NR còn được "hỗ trợ" bởi truyền thông khiến cho người dân, nhà đầu tư bất an.

Theo dòng thời gian.


Nhận xét từ TuanVietNam:
Chương trình “Tạp chí kinh tế cuối tuần” trên VTV1 gần đây đã đề cập đến các cuộc khủng hoảng tài chính hiện nay đang kéo theo nguy cơ sụp đổ cận kề của những ngân hàng hàng đầu tại Mỹ kể cả những ngân hàng khổng lồ từng được coi là pháo đài không thể công phá như Fannie Mae và Freddie Mac.

Trong danh sách những ngân hàng sụp đổ năm 2007, có cả cái tên Northern Rock - một ngân hàng từng là biểu tượng của thành công, niềm tự hào của Anh Quốc.

Và thảm họa lụn bại đó cũng chính là nguyên cớ cho sự ra đời của cuốn sách The fall of Northern Rock (Sự sụp đổ của Northern Rock) của tác giả Brian Walters. Trong cuốn sách, ông phân tích nguyên nhân dẫn tới sự sụp đổ của Northern Rock - một ngân hàng từng là biểu tượng của thành công.

Nothern Rock – thuở bình minh rực rỡ

Northern Rock Building Society được thành lập vào ngày 08/07/1965, vốn là một tổ chức chuyên cấp tín dụng để xây nhà có trụ sở đặt tại Newcastle – vùng đông bắc nước Anh. Ban đầu, nó chỉ là một ngân hàng rất nhỏ so với Halifax, ngân hàng cùng lĩnh vực. Northern Rock, vào thời điểm năm 1965, đứng thứ 60 trong bảng xếp hạng các tổ chức cung cấp tín dụng xây dựng.

Sau 40 năm hoạt động, nhờ vào việc tiếp nhận và mua lại các quỹ đầu tư cũng như đa dạng hóa hình thức kinh doanh và bước chân vào lãnh địa cho vay, cho thuê nhà, Northern Rock trở thành một trong 10 ngân hàng cho vay thế chấp lớn nhất nước Anh, sau khi tiếp quản thành công Tổ chức tín dụng North of England có trụ sở tại Sunderland với hơn 300.000 các tài khoản đầu tư, 43.000 người cho vay và tổng số tài sản lên tới 1.500 triệu bảng Anh với tổng tài sản lên tới 10 tỉ bảng.

Năm 2006 lợi nhuận của ngân hàng này đạt 1,18 tỉ bảng Anh và là ngân hàng cho vay tín chấp lớn thứ 5 tại Anh. Ngoài ra Northern Rock còn là nhà tài trợ chính thức cho CLB Bóng đá nổi tiếng Newcastle United.

Brian Walters cho rằng, Northern Rock sở dĩ đạt được đạt được mức tăng trưởng cao là bởi: Northern Rock đã nỗ lực để đứng vững trong khi các tổ chức tài chính tương tự bị các đại gia trong làng ngân hàng mua lại. Vốn đầu tư ban đầu thấp, tập trung vào thị trường có lợi thế, dịch vụ sáng tạo và cạnh tranh.
Northern Rock là một ngân hàng thành công vượt qua cả tiếng tăm, quy mô của nó và đã từng được các nhà phân tích tài chính London hết lời ca ngợi. Nhưng nguyên nhân nào dẫn tới sự sụp đổ nhanh chóng vào tháng 10 năm 2007 và dẫn tới việc ngân hàng này bị quốc hữu hóa vào tháng 2 năm 2008?

… Những bước đi ẩn chứa hiểm họa

Trong The Fall of Northern Rock, Brian Walter – từng là giám đốc một chi nhánh của ngân hàng này tại Leeds - đã thuật lại diễn biến và những sự kiện dẫn tới việc ngân hàng bị quốc hữu hóa.

Đặc biệt ông đã cho người đọc thấy được suy nghĩ tình cảm của các nhân viên Northern Rock trước, trong và sau cuộc khủng hoảng; cũng như những phân tích của riêng ông về nguyên nhân và cách để tránh một thảm họa tương tự.

Mô hình kinh doanh của Northern Rock như mọi ngân hàng khác là thu hút tiền gửi vào và dùng số tiền đó cho vay thế chấp. Nhưng việc huy động vốn không phải là một quy trình đơn giản. Mặc dù thực hiện nhiều biện pháp thu hút tiền gửi tiết kiệm, lượng tiền gửi tại Northern Rock khá thấp trong khi nhu cầu vay tại ngân hàng luôn lớn hơn nhiều lần so với các khoản tiền gửi.
Nhiều năm trước điều này đã khiến Northern Rock để vuột mất nhiều cơ hội đẩy mạnh kinh doanh, vì theo các quy định của Ngân hàng Trung ương Anh, các ngân hàng chỉ được cho vay số tiền mà họ thu được từ nguồn tiền gửi, và rõ ràng là, nếu một ngân hàng không thể thu hút nhiều tiền gửi vào thì nó cũng không thể tăng số tiền cho vay ra.

Nhưng điều này đã thay đổi. Trong khi những yêu cầu về nguồn vốn dự trữ cho mỗi ngân hàng là khá chặt chẽ, thì lại chẳng hề có một quy định nào về mức tiền gửi dự trữ trong ngân hàng cần có để phục vụ hoạt động cho vay của ngân hàng đó.

Vì thế các ngân hàng giờ đây được phép cho vay nhiều hơn rất nhiều số tiền gửi tiết kiệm mà nó thu hút được. Tính trung bình thì số tiền cho vay gấp khoảng 6 lần so với số tiền gửi mà một ngân hàng đang nắm giữ. Nhưng Northern Rock còn đi xa hơn thế.

Theo nhận định của Northern Rock thị trường cho vay thế chấp là khá lành mạnh. Vì thế những gì Northern Rock làm là gói một số các khoản vay thế chấp lại vào với nhau và bán những khoản thu nhập tương lai này cho các nhà đầu tư dài hạn. Northern Rock làm việc này thông qua một công ty có tên là Granitte – và quá trình này được gọi là “chứng khoán hóa” hay “trái phiếu hóa”.

Việc trái phiếu hóa các khoản vay đã cho phép Northern Rock mở rộng việc cho vay. Theo định kỳ, nó sẽ bán các khoản thế chấp bằng cách chứng khoán hóa và đổi lại có tiền để tiếp tục cho vay.

Northern Rock thường bù đắp khoảng thời gian giữa những hợp đồng chứng khoán hóa bằng cách vay ngắn hạn từ các ngân hàng khác, được gọi là thị trường tiền mặt bán buôn. Northern Rock đã làm như vậy trong nhiều năm và quy trình này tỏ ra rất hiệu quả.

Khi một ngân hàng vay tiền trên thị trường tiền tệ họ phải trả mức lãi suất liên ngân hàng được gọi là LIBOR (London Inter-bank Offered Rate – tỉ lệ lãi suất cho vay liên ngân hàng London) – thường cao hơn một chút so với lãi suất cơ bản của ngân hàng TW Anh.

Ví dụ vào 2/01/2007 tỉ lệ lãi suất LIBOR trong 3 tháng (lãi suất áp dụng cho vay trong 3 tháng liên tiếp) là 5,32% trong khi tỉ lệ lãi suất cơ bản của ngân hàng TW Anh là 5,00%. Sự dao động giữa 2 tỉ lệ này tác động tới khả năng sinh lời của Northern Rock.

Mô hình huy động vốn này có nghĩa là Northern Rock bán một nửa hợp đồng cho vay cho các nhà đầu tư hơn là nắm giữ nó cho tới khi đáo hạn. Và đây chính là mô hình kinh doanh hoạt động hiệu quả của Northern Rock.

Chiến lược huy động vốn của ngân hàng là 25% lấy từ khoản tiền gửi tiết kiệm, 25% từ thị trường tiền tệ bán buôn và 50% từ việc chứng khoán hóa. Năm 2005 mô hình huy động vốn này – vận hành rất trơn tru đã giúp cho Northern Rock đạt được mức tăng trưởng hàng năm là 20%.

Khó khăn nào sẽ tới khi lãi suất liên ngân hàng (LIBOR) trên thị trường tiền mặt Anh tăng cao? Và một khi thị trường này đóng băng do sự lo ngại của chính phủ về sự an toàn của hệ thống ngân hàng? Hay khi nền kinh tế suy giảm do chịu tác động của sự suy giảm toàn cầu? Nếu thị trường bất động sản không họat động sôi động nữa?...


My comment:
- Sách viết khá hay, thuật ngữ dịch khá chính xác và có kèm english term ở cuối trang.
- Nội dung thể hiện được tình hình khó khăn của NR và các ngân hàng ở châu Âu trong thời điểm khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn (subprime mortgage turmoil) (các bài báo trong thời điểm tháng 8/2007 đa phần thể hiện khó khăn trên thị trường Mỹ).
- Giá bán rẻ. (Amazon $11 mà Vietnam chỉ có 53k và discount 20% nữa)